Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2022/HSST ngày 06 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HS, ngày 15/4/2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1980 tại tỉnh Tuyên Quang; trú tại: Thôn C, xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; trình độ học vấn 04/12; con ông Nguyễn Ngọc Y, sinh năm 1951 và con bà Phạm Thị N (đã chết); vợ: Vũ Thị L, sinh năm 1985, con: 01 con sinh năm 2007;

* Tiền án: Ngày 24/7/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 01 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số 87 ngày 24/7/2019 của TAND thành phố Tuyên Quang), Biên chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/3/2020.

* Tiền sự: Không;

* Nhân thân: Ngày 18/3/2022, Công an thành phố Tuyên Quang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, hình thức: Phạt tiền.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Yên Sơn; có mặt tại phiên tòa.

-Bị hại: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn L, xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc B, trú tại Thôn C, xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang thường ngày đưa con đi học, có đi qua nhà chị Phạm Thị N, Thôn L, xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, Biên quan sát thấy nhà chị Nhã đi ra khỏi nhà nhưng không khóa cửa, Biên nảy sinh ý định vào nhà chị Nhã để trộm cắp tài sản. Khoảng 07 giờ ngày 10/01/2022, khi đưa con đi học Biên mang theo 01 chiếc balô, sau khi đưa con đến trường, Biên đi bộ đến đứng cách cổng trường khoảng 20 mét, quan sát thấy chị Nhã cùng chồng là Nguyễn Văn Đức rời khỏi nhà đi làm, nhưng không khóa cửa nhà, ngay sau đó Biên đi đến cửa hàng bán đồ gia dụng tại chợ Mỹ Bằng mua 01 chiếc tua vít có chiều dài 36,7cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 12cm; 01 chiếc tua vít chiều dài 31cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 11cm với giá 90.000 đồng, cho vào trong balô sau đó quay trở lại khu vực cổng nhà chị Nhã quan sát thấy không có người qua lại, Biên xách balô nhanh chóng đi đến trước cửa nhà chị Nhã, dùng tay đẩy cửa cuốn lên rồi chui vào trong nhà, tiếp tục đi vào mở cửa kính thủy lực bên trong rồi vào nhà, đi qua phòng khách đến phòng ngủ giáp cầu thang phía bên phải Biên nhìn thấy 01 con lợn đất đặt trên nóc tủ đựng quần áo kê phía dưới chân giường, Biên cầm con lợn đ ất đặt xuống giường dùng tua vít đập vỡ lấy được 170.000 đồng cất dấu vào túi quần phía sau đang mặc, sau đó Biên tiếp tục đi đến chỗ chiếc két sắt nhãn hiệu Việt Tiệp kích thước (73x47x34) cm đặt ở đầu giường bên trái theo hướng từ cửa nhìn vào, Biên dùng 02 chiếc tua vít cậy, phá cửa két sắt và lấy được trong két sắt số tiền 17.900.000 đồng, Biên cất tiền vào túi quần đang mặc rồi theo đường cũ rời khỏi nhà chị Nhã và ngay sau đó đón xe khách đi sang tỉnh Thái Nguyên chơi. Tổng số tiền Biên trộm cắp được của gia đình chị Nhã là 18.070.000 đồng Biên đã chi tiêu cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 05/KLĐG ngày 28/02/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Yên Sơn kết luận: 01 chiếc két sắt tính đến thời điểm ngày 10/01/2022 có trị giá 425.000 đồng (Bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).Đối với con lợn đất Biên đã đập vỡ, do tài sản mua đã lâu và trị giá không đáng kể nên chị Nhã không yêu cầu định giá.

* Vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Sơn thu giữ: các mảnh vỡ của con lợn đất; 01 két sắt nhãn hiệu Việt Tiệp kích thước (73x47x34)cm; Bị cáo tự giao nộp 01 tua vít chiều dài 36,7cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 12cm; 01 tua vít chiều dài 31cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 11cm; 01 thanh kim loại bằng thép xoắn dài 79cm, đường kính thân 1,8cm; 01 kìm bằng kim loại. Ngày 14/3/2022 đã trả lại cho chị Phạm Thị N các mảnh vỡ của con lợn đất; 01 két sắt nhãn hiệu Việt Tiệp kích thước (73x47x34)cm.

* Về phần trách nhiệm dân sự: Chị Nhã yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền trộm cắp của gia đình chị là 18.070.000đ; đối với thiệt hại chiếc két sắt bị phá hỏng và con lợn đất chị Nhã không yêu cầu bị cáo bồi thường. Bị cáo chưa bồi thường cho bị hại số tiền trên.

Trên cơ sở hành vi của bị cáo, ngày 06 tháng 4 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang ban hành bản cáo trạng số 36/CT-VKSTS truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc B phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; đoạn 1 điểm h, khoản 1 điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 (mười năm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 19/01/2022.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng: Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584; 585; 586; 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho chị Phạm Thị N số tiền 18.070.000đ (Mười tám triệu không trăm bẩy mươi nghìn đồng).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 tua vít chiều dài 36,7cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 12cm; 01 tua vít chiều dài 31cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 11cm; 01 thanh kim loại bằng thép xoắn dài 79cm, đường kính thân 1,8cm; 01 kìm bằng kim loại Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin lỗi gia đình bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và nhất trí bồi thường cho bị hại chị Phạm Thị N số tiền 18.070.000đ (Mười tám triệu không trăm bẩy mươi nghìn đồng). Bị hại đề nghị xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật và yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền bị cáo đã trộm cắp tổng số tiền là 18.070.000đ (Mười tám triệu không trăm bẩy mươi nghìn đồng) nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, từ chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 07 giờ 30 phút đến 8 giờ ngày 10/01/2022, tại nhà ở của gia đình chị Phạm Thị N, Thôn L, xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang: Nguyễn Ngọc B đã có hành vi lén lút đột nhập vào nhà phá két sắt, đập vỡ 01 con lợn đất trộm cắp của gia đình chị Nhã tổng số tiền VNĐ 18.070.000 đồng (Mười tám triệu không trăm bảy mươi nghìn đồng) và làm hỏng chiếc két sắt trị giá 425.000 đồng (Bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc B đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Ðiều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội ở giai đoạn đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp, mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản, trực tiếp đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tuổi còn trẻ, có sức khỏe nhưng không chịu lao động mà sớm đi vào con đường vi phạm pháp luật; bị cáo đã vi phạm pháp luật bị Tòa án xét xử nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục phạm tội nên cần xử bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3]. Về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 24/7/2019, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm tại bản án số 87/2019/HSST, Nguyễn Ngọc B đã chấp hành nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm tại biên lai số 0001185 ngày 13/9/2019. Nguyễn Ngọc B đã chấp hành xong án phạt tù vào ngày 03/3/2020. Tuy nhiên đến ngày 10/01/2022 bị cáo Nguyễn Ngọc B tiếp tục phạm tội mới chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quy định tại đoạn 1, điểm h, khoản 1, điều 52 Bộ luật hình sự Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo tỏ ra ăn năn hối cải nên HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm một phần mức án cho bị cáo.

[4]. Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự là phù hợp.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Chị Phạm Thị N đề nghị bị cáo bồi thường số tiền là 18.070.000 đồng (Mười tám triệu không trăm bảy mươi nghìn đồng). Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584; 585; 586; 589; 357 Bộ luật dân sự. Nên buộc bị cáo Nguyễn Ngọc B có nghĩa vụ bồi thường cho chị Phạm Thị N số tiền là 18.070.000 đồng (Mười tám triệu không trăm bảy mươi nghìn đồng).

Về vật chứng: Đối với 01 (một) tuốc nơ vít chiều dài 36,7cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 12cm; trên thân có chữ CHROME- VANADIUM; 01 (một) tuốc nơ vít chiều dài 31cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 11cm; trên thân có chữ CHROME- VANADIUM; 01 (một) thanh kim loại bằng thép xoắn (xà cầy) kích thước dài 79cm, một dầu dẹp, một đầu uốn cong tạo hình chữ L được đập rẹp ở giữa tạo thành khe hình chữ V, đường kính thân 18cm; 01 (một) kìm bằng kim loại (loại kìm cắt), có cán bằng cao xu màu xanh –trắng, đây là công cụ phạm tôi nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với thiệt hại chiếc két sắt trị giá 425.000 đồng (Bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng) bị phá hỏng và con lợn đất chị Phạm Thị N không yêu cầu bị cáo bồi thường. Chị Phạm Thị N không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Quá trình điều tra vụ án này, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp số tiền 1.100.000 đồng của Công ty TNHH Thành Phát, có địa chỉ tại tổ 10, phường Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang. Ngày 23/02/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Sơn đã chuyển tài liệu có liên quan đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 18/3/2022, Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Biên bằng hình thức phạt tiền.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; đoạn 1 điểm h, khoản 1 điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc B phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 19/01/2022.

2.Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584; 585; 586; 589; 357 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc B có nghĩa vụ bồi thường cho chị Phạm Thị N số tiền 18.070.000đ (Mười tám triệu không trăm bẩy mươi nghìn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ châm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi xuất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

“Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

3. Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 (một) tuốc nơ vít chiều dài 36,7cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 12cm; trên thân có chữ CHROME- VANADIUM; 01 (một) tuốc nơ vít chiều dài 31cm, tay nắm bằng nhựa màu xanh rêu chiều dài 11cm; trên thân có chữ CHROME- VANADIUM; 01 (một) thanh kim loại bằng thép xoắn (xà cầy) kích thước dài 79cm, một dầu dẹp, một đầu uốn cong tạo hình chữ L được đập rẹp ở giữa tạo thành khe hình chữ V, đường kính thân 18cm; 01 (một) kìm bằng kim loại (loại kìm cắt), có cán bằng cao xu màu xanh – trắng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng giữa Công an huyện Yên Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Sơn ngày 21/4/2022).

4. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 903.500đ (Chín trăm linh ba nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Căn cứ Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về