TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 350/2021/HSST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 376/2021/HSST ngày 07/9/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 373 /2021/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Huy P, sinh năm 1984; Nơi ĐKNKTT: thị trấn T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố: Nguyễn Huy K, sinh năm 1952; Mẹ: Vũ Thị Th(Đã chết); Vợ: Phạm Thị Nh, sinh năm 1985; có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2009; Tiền án,Tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1988 Địa chỉ: xã Quảng H, huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa.(vắng mặt)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1987 Địa chỉ: phố Q, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa ( vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11h45’ngày 18/6/2021 Nguyễn Huy P điều khiển xe mô tô đến Bệnh viện Nhi, phường Đ, thành phố T. Khi lên tầng 6 nhà D, P đi qua phòng 607, nhìn thấy có 01 điện thoại di động của chị Nguyễn Thị D đang để trên giường cạnh cửa ra vào. P quan sát không thấy có người trong phòng, P đi vào lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần và đi ra ngoài. Sau đó P tháo sim mang điện thoại đến cửa hàng sửa chữa điện thoại của anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1987, đường Q, phường Đ, thành phố T để bán. Anh L đồng ý mua chiếc điện thoại di động với số tiền 4.000.000 đồng. Số tiền này Phong đã sử dụng tiêu xài cá nhân.
Sau khi phát hiện bị mất tài sản chị Nguyễn Thị D đã đến Công an phường Đ, thành phố T báo cáo sự việc. Ngày 21/6/2021, Nguyễn Huy P đã đến Công an thành phố T đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội, anh Nguyễn Ngọc L đã giao nộp chiếc điện thoại cho Cơ quan Công an. Gia đình Nguyễn Huy P đã bồi thường số tiền 4.000.000 đồng cho anh L. Anh L không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Ngày 24/6/2021 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thanh Hóa định giá tài sản bị trộm cắp gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 trị giá 11.000.000 đồng, 01 ốp điện thoại trị giá: 100.000 đồng.
Ngày 21/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố T đã trả lại chiếc điện thoại Iphone 11 cho chị Nguyễn Thị D, chị D không yêu cầu bồi thường về dân sự.
Đối với chiếc xe mô tô Nguyễn Huy P sử dụng đi đến Bệnh viện Nhi để trộm cắp. Qua xác minh là xe của anh Vũ Công H ( anh họ P). Anh H khai báo chiếc xe này là loại Dream cũ, anh H không nhớ biển kiểm soát, hiện tại đã bán đồng nát cho người đi đường. Việc P lấy xe đi để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản anh H không biết. Vì vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.
Cáo trạng số 258/CT-VKSTP ngày 06/9/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Nguyễn Huy P về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thành phố Thanh Hóa luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65 của BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Về dân sự bị cáo đã bồi thường xong.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, cùng các chứng cứ khác thu thập được phản ánh trong hồ sơ. Đủ cơ sở chứng minh: Vào khoảng 11h15’ ngày 21/6/2021, tại phòng 607, tầng 6 nhà D Bệnh viện Nhi tỉnh Thanh Hóa, lợi dụng chủ sở hữu không quản lý tài sản, Nguyễn Huy P đã lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động trị giá 11.100.000 đồng (Mười một triệu một trăm nghìn đồng) của chị Nguyễn Thị D. Sau đó Phong tháo sim mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại của anh Nguyễn Ngọc L bán với giá 4.000.000đ số tiền này P tiêu xài cá nhân.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội đã đánh giá đúng tính chất hành vi nguy hiểm của tội phạm, đồng thời vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Huy P về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của BLHS như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nhận tội và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Huy P đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” Tội danh và khung hình phạt áp dụng xét xử đối với bị cáo qui định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS.
[3] Đây là vụ trộm cắp tài sản được thực hiện vào ban ngày, bị cáo lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ tài sản trong việc trông coi quản lý tài sản của mình, bị cáo nhanh chóng tiếp cận, lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an nơi khu vực, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do vậy phải được xử lý nghiêm minh.
[4] Về nhân thân, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo là người có tuổi đời còn rất trẻ, nhưng không chịu khó học tập lao động, ham chơi đua đòi, không có tiền ăn tiêu, nên bị cáo đã nảy sinh hành vi trộm cắp, nhất thời lao vào con đường phạm tội. Nhân thân bị cáo chưa tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã đến Cơ quan Công an đầu thú, thành khẩn khai báo, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s,b,i khoản 1,2 Điều 51 của BLHS. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu trên, nghĩ nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà sửa chữa sai phạm của mình, trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Theo báo cáo của bị hại chị Nguyễn Thị D tài sản bị trộm cắp là chiếc điện thoại Iphon11 và 01 ốp điện thoại chị đã nhận lại đầy đủ và không có ý kiến gì, nghĩ nên công nhận bị hại đã nhận lại đầy đủ tài sản.
Đối với số tiền 4.000.000đ bị cáo P bán cho anh Nguyễn Ngọc L, bị cáo P đã bồi thường cho anh L, anh L không yêu cầu gì thêm do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s,b,i khoản 1 Điều 51; khoản 1,2 và 5 Điều 65; BLHS; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Nguyễn Huy P phạm tội “ Trộm cắp tài sản”
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Huy P 09 ( Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Về phần dân sự: Công nhận bị hại chị Nguyễn Thị D đã nhận lại tài sản đầy đủ.
- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 350/2021/HSST
Số hiệu: | 350/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về