Bản án về tội trộm cắp tài sản số 345/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 345/2023/HS-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26/12/2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận B, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 337/2023/HSST ngày 28 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 370/2023/HSST ngày 04 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

L; Sinh năm 1995; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; HKTT: Thôn Lương Câu, xã Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Văn Thụy; Sinh năm 1975; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Thành; Sinh năm 1974; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Họ tên vợ: Nguyễn Ngọc Nhung; Sinh năm 2004. Có 01 con sinh năm tháng 11/2023.

Tiền án, tiền sự : Không.

Danh chỉ bản số 530 do Công an quận B lập ngày 05/10/2023 Bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số I - Công an thành phố H. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Văn Tr; Sinh năm 1995; Địa chỉ: Số 19, ngõ 486 đường Xuân Đỉnh, TDP Cáo Đỉnh 4, phường Xuân Đỉnh, quận B, TP H. Vắng mặt - Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 15 phút ngày 27/9/2023, công an phường Xuân Đỉnh, quận B nhận được đơn trình báo của anh Nguyễn Văn Tr (SN 1995; HKTT: số 19, ngõ 486 đường Xuân Đỉnh, TDP Cáo Đỉnh 4, phường Xuân Đỉnh, quận B, thành phố H) về việc anh bị mất 01 chiếc xe máy Honda Dream màu nâu, BKS: 29L1- xxxxx tại nhà ở số 19, ngõ 486 đường Xuân Đỉnh, TDP Cáo Đỉnh 4, phường Xuân Đỉnh, quận B, thành phố H. Ngay sau khi nhận được trình báo, công an phường Xuân Đỉnh đã tiến hành rà soát địa bàn đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày phát hiện L đang điều khiển xe máy BKS: 29L1- xxxxx theo hướng Phạm Văn Đồng đi Mai Dịch. T hành kiểm tra, Lâm khai nhận chiếc xe đang đi là do trộm cắp tại phường Xuân Đỉnh. Do đó tổ công tác đã dẫn giải Lâm cùng vật chứng về trụ sở để điều tra, làm rõ.

Vật chứng thu giữ của L:

- 01 (một) xe máy kiểu dáng Honda Dream, màu nâu, BKS: 29L1-xxxxx đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Good G3004G màu đen, viền kim loại đã qua sử dụng.

Tại kết luận định giá tài sản số 892 /KL – HĐĐGTS ngày 20/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận B kết luận: 01 (một) xe máy kiểu dáng Honda Dream, màu nâu BKS: 29L1- xxxxx đã qua sử dụng trị giá 16.000.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 27/9/2023, L bắt xe khách từ nhà ở Sơn Lôi, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc xuống H để tìm việc làm, khi đi đến bến xe Nam Thăng Long, Lâm đi bộ qua nhà số 19 ngõ 486 Xuân Đỉnh thuộc phường Xuân Đỉnh, quận B, thành phố H thì nhìn thấy 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, BKS: 29L1- xxxxx để ở sân nhà trên xe vẫn cắm chìa khóa, thấy cửa nhà không khóa và không có ai trông coi nên Lâm đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lâm đi bộ vào trong dắt xe ra ngoài cửa rồi nổ máy đi về phía cầu Thăng Long để sang khu vực huyện Đông Anh tìm chỗ bán xe. Do không tìm được chỗ bán xe nên Lâm điều khiển xe quay lại khu đô thị Ciputra để tiếp tục tìm việc làm. Khi đi đến gần khu vực bến xe Nam Thăng Long thì bị tổ công tác của công an phường Xuân Đỉnh phát hiện kiểm tra, đưa về trụ sở điều tra, làm rõ.

Xác minh xe máy Honda Dream màu nâu, BKS: 29L1- xxxxx, số khung RLHHA080XAY395487; số máy HA08E1695522 chủ xe là anh Nguyễn Văn Tr.

Ngày 25/10/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận B có Quyết định xử lý vật chứng số 148 trao trả xe máy cho người bị hại là anh Nguyễn Văn Tr. Anh Tr đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì về dân sự, đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận B, L khai nhận hành vi phạm tội như trên và khai do bản thân không có việc làm mới xuống H, do không có tiền chi tiêu nên nảy sinh ý định trộm cắp xe máy bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Đối với chiếc điện thoại thu giữ của L vẫn tiếp tục tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 341/CT-VKSBTL ngày 28 tháng 11 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố H đã truy tố L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với nội dung Cáo trạng đã viện dẫn, bị cáo nhận thức là vi phạm pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên không có lời trình bày. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B giữ nguyên quyết định của bản cáo trạng đã truy tố, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo L mức án từ 09 đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Good G3004G màu đen, viền kim loại đã qua sử dụng;

Về dân sự: Không. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận B, thành phố H; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố H: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, nên hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, L khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, vật chứng được thu giữ, cùng các tài liệu chứng cứ khác.

Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Ngày 27/9/2023, tại số nhà 19, ngõ 486 đường Xuân Đỉnh, TDP Cáo Đỉnh 4, phường Xuân Đỉnh, quận B, thành phố H, L có hành vi trộm cắp 01 xe máy Honda Dream, màu nâu BKS: 29L1- xxxxx trị giá 16.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn Tr.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của L như trên đã phạm tội“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Chỉ vì mục đích tư lợi, bị cáo bất chấp quy định của pháp luật, chiếm đoạt tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa pH, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với vai trò, tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo để cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Đánh giá vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về tình tiết tặng nặng: Không có; Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tài sản đã thu hồi trao trả cho bị hại; Nhân thân tốt; Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được hưởng tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Với những phân tích trên thấy không nhất thiết phải cách ly bị cáo Lâm ra khỏi đời sống xã hội, mà để bị cáo cải tạo ngoài xã hội cũng đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên không xét.

[6]. Về xử lý vật chứng:

01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Good G3004G màu đen, viền kim loại đã qua sử dụng đã thu giữ của bị cáo là tài sản riêng, không dùng vào việc phạm tội, trả lại bị cáo.

[7].Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo L 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng, tính từ ngày 26/12/2023.

Giao bị cáo L cho Ủy ban nhân dân xã Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không 4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Good G3004G màu đen, viền kim loại đã qua sử dụng.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 76/24 ngày 06/12/2023 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự quận B).

5. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 345/2023/HS-ST

Số hiệu:345/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về