TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 15/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2023/TLST-HS ngày 15/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-HS ngày 01/12/2023, đối với bị cáo:
Bùi Đức Đ, sinh ngày 07/7/2002; tại: xã T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn M, xã T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân T, sinh năm 1979 và bà Mai Thị Th, sinh năm 1981; Chưa có vợ, con;
Tiền án; tiền sự: không;
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nga Sơn, từ ngày 25/9/2023 đến nay; Có mặt.
* Trợ giúp pháp lý bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Nữ H; địa chỉ: Tr tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa, số 32, đại Lộ Lê Lợi, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa (có mặt).
* Bị hại: Anh Mai Văn T - Sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt; có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Xuân T - Sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn Y, xã Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).
* Người làm chứng:
1/ Anh Lê Văn Tr - Sinh năm 2002; địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).
2/ Anh Nguyễn Hữu C - Sinh năm 2003; địa chỉ: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Cuối năm 2022, Bùi Đức Đ thực hiện xong nghĩa vụ quân sự và trở về địa phương sinh sống tại địa phương. Từ đó đến nay, Đ không có công ăn việc làm ổn định, có biểu hiện nghiện Game, thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú.
Do có mối quan hệ quen biết nên Đ thường qua nhà anh T chơi và được biết T hiện nay đang sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax. Bản thân do đang cần tiền chi tiêu nên ngày 21/9/2023, Đ đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại này của T để mang đi bán.
Khoảng 18 giờ, ngày 21/9/2023 sau khi chơi Game tại quán internet H Tiến (thị trấn Nga Sơn), Đ nhờ người bạn của mình tên là Lê Văn Tr dùng xe môtô chở Đ đến nhà của Mai Văn T. Đến nơi Tr quay xe về nhà. Lúc này, Đ không thấy T ở nhà nên đi ra chiếc võng ngoài bờ ao nằm chờ ở đó.Mục đích đợi T về nhà, ngủ say rồi vào trộm điện thoại. Đến 20 giờ, cùng ngày, Đ quan sát thấy anh T về nhà, bật điện nhà chính, đến khoảng 22 giờ thì tắt điện. Đ tiếp tục nằm chờ thêm 02 tiếng nữa. Đến khoảng 00 giờ 15 phút, ngày 22/9/2023, khi thấy trong nhà không còn tiếng động, xung quanh đều đã tắt điện đi ngủ, Đ ngồi dậy đi vào trong sân. Do cửa cổng và cửa chính nhà anh T không khóa nên Đ mở cửa chính, lẻn đi vào trong phòng khách rồi tiến vào phòng ngủ của nhà anh T. Tại đây, Đ quan sát thấy anh T đang ngủ, chiệc điện thoại nhãn hiệu Iphone 14 Promax để đầu giường bên trái, cạnh cửa ra vào. Đ tiến lại gần, lén lút dùng tay lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần phía trước bên trái, sau đó đi ra ngoài theo đưỡng cũ.
Ra đến ngoài khu vực nhà T, Đ mở điện thoại, tháo sim của T ra và lắp sim số 0776.318.586 của mình vào (do trước đó, Đ đã nhiều lần mượn điện thoại của T để sử dụng nên Đ nhớ mật khẩu mở máy cũng như mật khẩu Icloud). Sau đó, Đ đăng nhập tài khoản Facebook của mình, và dùng ứng dụng Messenger gọi điện cho Tr nhờ đến đón. Đ thoát tài khoản Icloud trên máy, vứt sim của T dọc đường. Đ đi bộ đến cổng bệnh viện đa khoa huyện Nga Sơn thì gặp Tr đi xe ngược chiều đến.Đ và Tr cùng đi đến quán internet Cá Cơm thị trấn Nga Sơn để chơi điện tử. Tại đây, Đ nói nói với một số người chơi cùng mình được người anh họ cho chiếc điện thoại Iphone 14 để sử dụng.
Khoảng 7 giờ ngày 22/9/2023, Đ nhờ người bạn tên là Nguyễn Hữu C dùng xe mô tô chở đến cửa hàng điện thoại Apple Store (gần khu vực Cầu Kênh, thị trấn Nga Sơn) để bán chiếc điện thoại lấy tiền. Khi đến nơi, cửa hàng chưa mở cửa nên Đ nhờ C gọi vào số điện thoại trên biển quảng cáo cho chủ cửa hàng. Ít phút sau anh Nguyễn Xuân T, chủ cửa hàng đến. Đ nói với anh T đây là điện 2 thoại của mình, do không có nhu cầu nên muốn bán. Sau khi kiểm tra thấy Đ cung cấp đầy đủ mật khẩu mở máy và mật khẩu Icloud nên anh T không nghi ngờ gì thống nhất mua lại chiếc điện thoại với giá 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng). Nhận được tiền, Đ sử dụng chi tiêu cá nhân hết.
Đối với anh Mai Văn T, sáng ngày 22/9/2023, sau khi ngủ dậy không thấy điện thoại của mình đâu nên T tìm và hỏi mọi người xung quanh. Thông qua thông tin bạn bè, T nghi ngờ Đ là người trộm cắp chiệc điện thoại của mình. T điện hỏi nhưng Đ không thừa nhận. Ngày 23/9/2023, T đã đến trụ sở công an xã V, huyện Nga Sơn để trình báo sự việc.
Sáng ngày 24/9/2023, sau khi được Công an xã V giải thích và được sự động viên từ gia đình nên Bùi Đức Đ đã tự nguyện đầu thú và thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Qua khai báo của Đ, Công an xã V làm việc với anh Nguyễn Xuân T, chủ cửa hàng điện thoại. Biết được điện thoại mình mua là tài sản do Đ trộm cắp mà có nên anh T đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím để phục vụ cho công tác điều tra và giải quyết vụ án.
Tiếp nhận người phạm tội đầu thú và kiểm tra, thu giữ được tang vật của vụ việc, Công an xã V đã tiến hành chuyển nguồn tin về tội phạm đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn để giải quyết theo quy định.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐGTS ngày 28/9/2023 của Hội đồng định giá Ủy ban nhân dân huyện Nga Sơn kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím, có số Imei 1: 354828354029304; sô Imei 2: 354828354166858, dung lượng 256Gb, đã qua sử dụng, giá trị thời điểm bị trộm cắp là 20.050.000đ (Hai mươi triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) Đối với Lê Văn Tr là người trở Bùi Đức Đ đến nhà của Mai Văn T vào tối ngày 21/9/2023 và đón Đ đến quán internet Cá Cơm; Nguyễn Hữu C là người chở Đ đi bán điện thoại vào sáng ngày 22/9/2023. Tuy nhiên, Tr và C không biết Đ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và chiếc điện thoại, nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím là do hành vi trộm cắp tài sản của Đ mà có. Tr và C đều không được hưởng lợi ích gì từ hành vi phạm tội của Đ nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn không xử lý Tr và C là phù hợp quy định.
Đối với Nguyễn Xuân T, chủ cửa hàng điện thoại, khi mua điện thoại của Đ, anh T không biết rõ đây là tài sản do Đ trộm cắp mà có nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn không xử lý anh T là phù hợp quy định.
Quá trình điều tra vụ án, Bùi Đức Đ đã tác động đến gia đình để bồi thường lại cho anh T số tiền 20.000.000đ. Hiện tại, anh T không có yêu cầu đề nghị Bùi Đức Đ bồi thường gì thêm.
Ngày 30/9/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc điện thoại nêu trên cho chủ sở hữu, anh Mai Văn T nhận lại tài sản, không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên toà, trong phần luận tội, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Bùi Đức Đ theo cáo trạng số 32/CT-VKS- NS, ngày 15/11/2023 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của BLHS.
- Xử phạt: Bùi Đức Đ từ 04 đến 05 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 25/9/2023;
Hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của BLHS.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên miễn xét.
- Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên xem xét miễn án phí HSST cho bị cáo theo quy định
* Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Bùi Đức Đ có các quan điểm như sau:
Bị cáo Đ sinh ra trong gia đình có bốn anh chị em, bị cáo là con đầu. Bố mẹ bị cáo là những người nông dân làm ruộng chân chính. Gia đình khó khăn nên bị cáo chỉ học hết lớp 7 rồi nghỉ học. Bố mẹ bị cáo không sống cùng nhau nên trong cuộc sống bị cáo thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ cũng là một trong những nguyên nhân mà bị cáo đã có hành vi vi phạm pháp luật.
Trước khi phạm tội lần này, bị cáo chưa từng vi phạm pháp luật, cũng như chưa từng bị kết án, là người chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần đầu bị cáo phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đầu thú; bồi thường, khắc phục thiệt hại cho bị hại; bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm b, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 cho bị cáo. Từ những phân tích trên, Trợ giúp viên đề nghị HĐXX:
- Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1Điều 173; điểm b, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 BLHS 2015 để tuyên bị cáo Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị với mức hình phạt là 3-5 tháng tù giam.
Bị cáo là người thuộc hộ cận nghèo nên đề nghị HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên đề nghị HĐXX không xem xét.
- Về án phí: Bị cáo Đ thuộc hộ cận nghèo và bị cáo đã có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm; căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS và Trợ giúp viên pháp lý, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Đức Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Vào khoảng 00 giờ 15 phút, tại phòng ngủ của gia đình anh Mai Văn T, ngày 22/9/2023, Bùi Đức Đ đã có hành vi lén lút thực hiện hành vi trộm cáp 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 14 Pro Max, dung lượng 256 Gb, đã qua sử dụng có giá trị 20.050.000đ. Ngày 24/9/2023, Đ đã đầu thú với Công an xã V, huyện Nga Sơn về hành vi phạm tội của mình.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với đơn trình báo của bị hại, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, bị cáo Đ đã lợi dụng sự sơ hở trong đêm tối, người bị hại ngủ nên không có sự quản lý về tài sản để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Sau đó, đem tài sản trộm cắp bán, lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây nguy hiểm và mất trật tự trị an xã hội.
[3] Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo tuổi còn trẻ, là người có sức khỏe, không chịu lao động, nhưng lại muốn hưởng thụ trên thành quả công sức từ tài sản của người khác để trộm cắp tài sản.
[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: Bị cáo Đ có nhân thân tốt.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đ đã thành khẩn khai báo; người phạm tội khắc phục hậu quả; đầu thú; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.
[5] Hình phạt bổ sung: Bị cáo sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương; không có công việc làm ổn định và có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của BLHS.
[6] Tại phiên tòa, bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Tuy nhiên, quá trình điều tra các bên đã tự nguyện thống nhất bồi thường dân sự xong nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định.
[7] Xét đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Đ, HĐXX thấy rằng: trợ giúp viên pháp lý đề nghị xem xét về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo; về biện pháp chấp hành đề nghị áp dụng Điều 54 BLHS cho bị cáo hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và xem xét miễn án phí theo quy định cho bị cáo là có căn cứ nên được chấp nhận xem xét.
[8] Từ những căn cứ nêu trên xét thấy: cần áp dụng Điều 38 của BLHS cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật.Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, HĐXX căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo để áp dụng khoản 1 Điều 54 của BLHS, cho bị cáo hưởng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật dành cho bị cáo.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên miễn xét.
[10] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[11] Về án phí: Bị cáo Bùi Đức Đ có đơn xin miễn nộp tiền án phí Toà án và thuộc đối tượng hộ cận nghèo nên được xem xét miễn nộp tiền án phí HSST theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự.
* Tuyên bố: Bị cáo Bùi Đức Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
* Xử phạt: Bị cáo Bùi Đức Đ 04 (Bốn) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (25/9/2023) * Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì bị cáo Bùi Đức Đ thuộc đối tượng hộ cận nghèo, được miễn nộp tiền án phí HSST.
* Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2023/HS-ST
Số hiệu: | 34/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về