TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG TÀI, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20/9/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân huyện Lương Tài xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2021/HSST ngày 27 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn V(tên gọi khác Nguyễn Sỹ V) – Sinh năm 1972 Địa chỉ: Thôn D, xã X, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn S và con bà Bùi Thị S; Có vợ (đã ly hôn); Tiền sự: Không; Tiền án: + Tại bản án số: 08/HSST ngày 17/8/2001 của Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, Thanh Hóa , bị cáo bị xử phạt 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; + Tại bản án số: 04/2002/HSPT ngày 11/01/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, bị cáo bị xử phạt 30 tháng tù về tội "Cố ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác". Tổng hợp hình phạt của bản án 08/HSST ngày 17/8/2001 của Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, Thanh Hóa buộc V phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2001; + Tại bản án số: 75/2006/HSPT ngày 20/01/2006 của Tòa án nhân dân Tối cao, bị cáo bị xử phạt 16 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 14/11/2017; Nhân thân: + Ngày 14/01/1991 bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lương xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; + Ngày 06/9/1991 bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lương xử phạt 9 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản công dân”, tổng hợp hình phạt của 2 bản án là 18 tháng tù; Ngày 10/6/1995 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc xử phạt 3 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; + Ngày 20/3/1996 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Hà Bắc xử phạt 10 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam tỉnh Bắc Ninh (có mặt tại phiên tòa).
2. Nguyễn H– Sinh năm 1967 Địa chỉ: Thôn D, xã X, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Sỹ L và con bà Bùi Thị T; Có vợ là Đặng Thị Ngơi và 02 con, con lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1997; Tiền sự: Không; Tiền án: Tại bản án số: 44/2017/HSST ngày 26/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo bị xử phạt 27 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; Nhân thân: + Ngày 17/10/1994 bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lương xử phạt 09 tháng tù về tội “tổ chức dùng chất ma túy” ; + Ngày 08/12/1998 bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lương xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam tỉnh Bắc Ninh (có mặt tại phiên tòa).
Bị hại: Ông Nguyễn Công P – sinh năm 1975 Địa chỉ: Nghĩa Chỉ - Minh Đạo – Tiên Du – Bắc Ninh (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do đều là những đối tượng nghiện ma túy nên khoảng 00 giờ 30 phút ngày 15/4/2021, khi V và H đang ngồi uống nước ở cổng nhà H thì H rủ V đi xuống khu vực huyện Lương Tài xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy về sử dụng. V đồng ý chở H bằng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius mang BKS: 36E1 – 232.xx (xe V được người bạn tên là Thanh quê ở Thạch Thành, Thanh Hóa cho để làm phương tiện đi lại, cho khi cùng đi làm xây dựng ở thành phố Bắc Ninh), H vào nhà mình kéo theo 01 chiếc xe cải tiến của gia đình mục đích để chở tài sản nếu trộm cắp được. V chở H đi đến tỉnh lộ 280 thuộc địa phận thôn Q, thị trấn A, huyện Lương Tài thì phát hiện bên đường tỉnh lộ có công trường đang xây dựng (công trường xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân huyện Lương Tài) thì phát hiện sân công trường có 01 đống vật liệu xây dựng gồm cát, sỏi và các bộ giáo tiệp phục vụ quá trình xây dựng. V dựng xe cạnh đường tỉnh lộ 280 rồi cùng H vào bê 02 bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,7 mét và 04 (bốn) bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,5 mét (06 bộ giáo trên gồm 12 chân giáo và 19 thanh giằng giáo) ra chất lên xe cải tiến. Sau đó V chở H về đến khu vực Trung tâm y tế huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh thì bị lực lượng Công an thị trấn Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh bắt giữ, bàn giao toàn bộ người và vật chứng đến Công an huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Quá trình nhận bàn giao từ Công an thị trấn Gia Bình, huyện Gia Bình, lực lượng Công an huyện Lương Tài đã nhận bàn giao: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius BKS: 36E1 – 232.xx của Nguyễn Thanh V; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel; 01 xe cải tiến đã qua sử dụng trên xe có 02 bộ giàn giáo loại 1,7 m, 04 bộ giàn giáo loại 1,5 m gồm 12 chân giáo và 19 thanh giằng).
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 80/KL – HĐĐGTS ngày 23/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lương Tài kết luận: 02 (hai) bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,7 mét đã qua sử dụng có giá trị là 1.000.000 đồng (500.000 đồng/01 bộ); 04 (bốn) bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,5 mét đã qua sử dụng có giá trị là 1.200.000 đồng (300.000 đồng/01 bộ); Tổng tài sản cần định giá là 2.200.000 đồng (Hai triệu hai trăm nghìn đồng).
Tại bản cáo trạng số 30/CT – VKS - LT ngày 23/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài, đã truy tố Nguyễn Vvề tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự và Nguyễn Hvề tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự .
Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận đầy đủ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài, sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn V(tên gọi khác Nguyễn Sỹ V) và Nguyễn Hphạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn V(tên gọi khác Nguyễn Sỹ V) từ 24 đến 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo;
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Htừ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo;
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: Chiếc biểm kiểm soát 36E1 – 232.xx.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe cải tiến đã qua sử dụng.
- Trả lại: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu đỏ, đã qua sử dụng cho bị cáo V và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng cho bị cáo H. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà, không tranh luận gì thêm.
Đại diện Viện kiểm sát không tranh luận gì thêm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Vvà Nguyễn Hđã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với cáo trạng của VKSND huyện Lương Tài, biên bản vụ việc của Công an huyện Gia Bình, lời khai của người bị hại, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Do đều là những đối tượng nghiện ma túy, cần tiền mua ma túy về sử dụng nên khoảng 02 giờ 30 phút ngày 15/4/2021, Nguyễn Hvà Nguyễn Vđã có hành vi lén lút trộm cắp 02 bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,7 mét và 04 (bốn) bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,5 mét. Số giáo trên bao gồm 12 chân giáo và 19 thanh giằng giáo trị giá 2.200.000 đồng tại công trường đang thi công xây dựng trụ sở UBND huyện Lương Tài thuộc thôn Q, thị trấn A, huyện Lương Tài. Do trước khi phạm tội lần này bị cáo V đã bị xác định là tái phạm, chưa được xóa án tích, nên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Vphạm tội “Trộm cắp tài sản” vi phạm điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; Nguyễn Hphạm tội “Trộm cắp tài sản” vi phạm khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự, an ninh, an toàn trên địa bàn dân cư. Các bị cáo nhất thời phạm tội và là đồng phạm có vai trò như nhau. Chỉ vì muốn có tiền ăn tiêu mà các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, lén lút trộm cắp tài sản của người khác. Bản thân các bị cáo là người có nhân thân xấu, V có 3 tiền án về tội phạm khác và đã bị xác định là tái phạm chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm; H cũng có 1 tiền án về tội phạm khác, lần phạm tội này là tái phạm nhưng các bị cáo đều không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.
Điều đó cho thấy các bị cáo là đối tượng khó giáo dục, coi thường pháp luật nên cần áp dụng chế tài hình sự nghiêm khắc là cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo có thời gian cải tạo, tu dưỡng thành người có ích cho xã hội.
Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo V có 3 tiền án và đã xác định là tình tiết định khung nên không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo H có 1 tiền án, lần phạm tội này là tái phạm nên có 1 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi bị bắt tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên khi lượng hình cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn và đã được thu hồi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.
Về vật chứng của vụ án: Đối với 02 (hai) bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,7 mét đã qua sử dụng và 04 (bốn) bộ giàn giáo tiệp, loại giáo cao 1,5 mét đã qua sử dụng đã được Cơ quan điều tra trả lại cho bị hại theo quy định cẩu pháp luật nên không đặt ra xem xét.
Đối với chiếc xe nhãn hiệu nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius số khung: RLCS5C6K0FY199045; số máy 5C6K – 199045 quá trình điều tra xác định xe đăng ký tên chủ xe là chị Nguyễn Thị Tuyến ở thôn 4, Sơ Pai, Kbang, Gia Lai; kết quả ủy thác điều tra chị Tuyến trình bày bị kẻ gian trộm cắp vào năm 2017 tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, xác định chiếc xe là vật chứng cần xem xét, giải quyết trong vụ án khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Lương Tài đã có công văn số 90/CV – CQĐT ngày 28/6/2021 đề nghị Công an huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai tiếp nhận phối hợp giải quyết là phù hợp.
Chiếc biểm kiểm soát: 36E1 – 232.xx là chiếc biển giả nên cần tịch thu tiêu hủy; Chiếc xe cải tiến đã qua sử dụng của bị cáo H là phương tiện các bị cáo dùng vào việc vận chuyển tài sản trộm cắp nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu đỏ, đã qua sử dụng của bị cáo V và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng của bị cáo H được xác định không dùng vào việc phạm tội nên tuyên trả cho các bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố Bị cáo Nguyễn V(tên gọi khác Nguyễn Sỹ V) và Nguyễn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn V(tên gọi khác Nguyễn Sỹ V) 27 (Hai bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/4/2021.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn H09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/4/2021.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Tạm giam các bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: Chiếc biểm kiểm soát 36E1 – 232.xx.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe cải tiến đã qua sử dụng.
- Trả lại: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu đỏ, đã qua sử dụng cho bị cáo V và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng cho bị cáo H. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc Nguyễn V(tên gọi khác Nguyễn Sỹ V) và Nguyễn Hmỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án (hoặc niêm yết bản án)./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST
Số hiệu: | 34/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lương Tài - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về