Bản án về tội trộm cắp tài sản số 334/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 334/2023/HS-ST NGÀY 02/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 315/2023/HSST ngày 06 tháng 10 năm 2023; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 318/2023/QĐXX-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo:

Trịnh Quốc T, sinh ngày 22/8/2004; Giới tính: Nam; Đăng ký thường trú: xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở: Không cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Trịnh Trung C; Con bà Nguyễn Thị V; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 339 ngày 21/5/2023 do Công an quận Đống Đa lập; Bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 11/5/2023; Hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

- Hộ kinh doanh Karaoke tự do - L; Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Xuân T; Địa chỉ kinh doanh: phường Ô, quận Đ, Hà Nội; Người được ủy quyền: Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1981; Đăng ký thường trú: Đ, T, Phú Thọ; Địa chỉ liên hệ: phường Ô, Đ, Hà Nội. Vắng mặt.

- Anh Trần Văn T, sinh năm 1991; Đăng ký thường trú: huyện V, tỉnh B; Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1995; Đăng ký thường trú: huyện P, H; Địa chỉ: Trung Kính, C, Hà Nội. Vắng mặt.

- Ông Phạm Tuấn D, sinh năm 1969; Địa chỉ: phường M, quận H, Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 7/2022, Trịnh Quốc T sử dụng tên giả là “D” đến xin việc và được anh Đỗ Văn T (sinh năm 1981; trú tại: Đông Chung, Thanh Thủy, Phú Thọ) tuyển vào làm nhân viên quán hát Karaoke Liberty - địa chỉ 408 La Thành, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Thời gian sau đó, do không đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy nên quán không hoạt động, T không có lương và không có chỗ ở, nên được ông T cho ở nhờ tại quán. Quá trình ở nhà tại quán, T đã nảy sinh ý định lấy tài sản của quán, bán lấy tiền, rồi bỏ đi, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: Ngày 13/01/2023, T lên mạng xã hội tìm được tài khoản facebook “Xuân Đ” của anh Nguyễn Xuân Đ (sinh năm 1995; trú tại Hoàng Long, Phú Xuyên, Hà Nội); T nhắn tin hỏi bán bộ đầu hát karaoke, anh Đ yêu cầu xem máy trực tiếp, T đồng ý và gửi địa chỉ quán hát karaoke số 408 La Thành. Tại 408 La Thành, để tránh việc bị phát hiện là trộm cắp đem bán nên T nói dối với anh Đ đây là hàng thanh lý của quán, chủ nhờ bán rồi đưa Đ vào phòng điều hành (phòng xem camera) đợi. Sau đó, T đi lên các phòng 102, 201, 203 lấy 03 bộ đầu hát karaoke (bao gồm cả màn hình và đầu hát) ở mỗi phòng rồi mang xuống cho Đ xem. Do tại quán không có chỗ để chạy thử nên anh Đ đề nghị mang máy về cửa hàng xem rồi sẽ chuyển khoản sau, T đồng ý và đã đưa cho Đ 03 bộ gồm 03 màn hình KTV và 03 bộ đầu hát Karaoke. Sau khi kiểm tra, anh Đ thông báo có 01 bộ đầu bị hỏng nên chỉ đồng ý mua với giá 7.750.000 đồng, T đồng ý. Anh Đ đã chuyển khoản trả T làm 2 lần gồm 4.750.000 đồng và 3.000.000 đồng đến tài khoản ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPbank) số 0000059L7 mang tên “NGHIEM XUAN C” (Do trước đó T không có tài khoản ngân hàng sử dụng nên được bạn là Nghiên Xuân C cho tài khoản ngân hàng trên để sử dụng. Số tiền trên T đã chi tiêu cá nhân hết.

- Vụ thứ hai: Ngày 10/02/2023, T tiếp tục liên hệ qua facebook với anh Đ và nói muốn bán tiếp 03 bộ đầu hát gồm đủ cả màn hình và đầu hát. Khoảng 14 giờ cùng ngày, T lên các phòng 301, 302, 303 của quán lấy tổng 03 bộ đầu hát ở (mỗi phòng 01 bộ) mang xuống kho rồi chụp ảnh cho anh Đ xem trước. Sau khi xem xong Đ yêu cầu T mang 03 bộ đầu hát đến nhà của Đ để kiểm tra; T đồng ý nên 7 giờ sáng ngày 11/02/2023, T gọi taxi mang theo 03 bộ đầu hát đến địa chỉ số 28 ngõ 68 Trung Kính, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội để Đ kiểm tra máy; Do anh Đ đi vắng nên T gửi các bộ đầu hát vào nhà cho mẹ anh Đạt để về sẽ kiểm tra sau. Ngày 12/02/2023, sau khi kiểm tra máy, anh Đ trao đổi và chốt tổng số tiền mua 03 bộ đầu hát là 7.800.000 đồng. Do lúc đó T không mang điện thoại để kiểm tra việc nhận tiền qua Internet Banking nên đã nhờ bạn là chị Nguyễn Thị Phương Đ (sinh năm 2003; trú tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An - là bạn của T) nhận tiền hộ qua tài khoản ngân hàng TMCP Quân Đội (MBbank) số 034710L3 mang tên “NGUYEN THI PHUONG D”. Sau đó, chị Đ đã chuyển khoản lại số tiền trên cho T vào tài khoản ngân hàng TPBank số 0000059L7 mang tên “NGHIEM XUAN C”. Sau đó, T bỏ đi khỏi quán, cắt đứt liên lạc với ông T và những người làm tại quán.

Tại Kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐĐGTS ngày 27/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản UBND quận Đống Đa, kết luận:

- 01 (một) đầu hát karaoke nhãn hiệu VietKTV HD Pro màu trắng định giá 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng) - 01 (một) màn hình VietKTV 22 inch màu vàng, tài sản đã qua sử dụng, chưa thu hồi định giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng chẵn) - 06 (sáu) đầu hát Karaoke nhãn hiệu VietKTV HD Pro màu trắng định giá 21.000.000 đồng (hai mươi mốt triệu đồng) - 06 (sáu) màn hình VietKTV 22 inch màu vàng, tài sản đã qua sử dụng, chưa thu hồi định giá 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng chẵn) Ngoài hành vi nêu trên, Trịnh Quốc T còn có hành vi sau:

T đã nảy sinh ý định lừa lấy chiếc xe máy nhãn hiệu Vecstar màu xanh trắng, biển kiểm soát: 98H8 - L8 của anh Trần Văn T (sinh năm 1991; địa chỉ: huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) là nhân viên cùng làm tại quán để đem bán lấy tiền. T gọi điện cho anh T lấy lý do mượn xe để đi chơi, anh T đồng ý và mang xe máy đến số 408 La Thành, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội đưa cho anh T mượn rồi anh T ra quán điện tử tại 3/371 Đê La Thành ngồi chơi đợi T về trả xe. Sau khi lấy được xe, T đem ra quán điện tử khác ở phố Hào Nam gửi xe ở đó rồi đi bộ về quán điện tử nơi anh T đang chơi với mục đích lấy nốt giấy đăng ký xe. Tại đây, T nói với anh T là “Xe bị công an bắt rồi, bây giờ phải có giấy tờ mới lấy được xe ra”, anh T nói giấy tờ để ở quê. Đến ngày hôm sau, anh T bắt xe về quê lấy giấy tờ xe lên và đưa cho T để T ra Công an lấy xe, anh T không hỏi về biên lai phạt nên không biết T nói dối. Sau khi lấy được giấy tờ xe, T quay lại quán điện tử ở Hào Nam rồi lấy xe. T lên mạng tìm người mua bán xe máy cũ, thì liên hệ được với ông Phạm Tuấn D (sinh năm 1969; trú tại phường Mai Động, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội) hẹn xem xe trực tiếp ở khu vực chợ Mai Động, phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội. T đi xe máy trực tiếp đến khu Mai Động để ông D kiểm tra và thỏa thuận mua bán xe với giá 2.000.000 đồng; Ông D đã trả tiền mặt cho T. Sau khi đã bán xe, T quay lại chỗ anh T và nói: “xe máy bây giờ chưa lấy được đâu, Công an họ bảo phải lưu kho một tuần”, anh T không nghi ngờ gì cả. Sau đó, T chặn liên lạc với anh T và không về quán 408 La Thành nữa. Số tiền bán xe máy có được T đã sử dụng ăn tiêu cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 45/KL-HĐĐGTS ngày 03/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản - UBND quận Đống Đa kết luận: Xe máy nhãn hiệu Vecstar, màu xanh BKS 98H - L8, SK 00L8, SM 00L8 đã qua sử dụng, đã thu hồi định giá 3.925.000 đồng (ba triệu chín trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 278/CT-VKSĐĐ ngày 31/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Trịnh Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo T khai nhận: Tại 408 Đê La Thành bị cáo đã 02 lần có hành vi lén lút chiếm đoạt tổng là 06 bộ đầu hát karaoke nhãn hiệu VietKTV HD Pro màu trắng, mỗi bộ kèm theo màn hình VietKTV 22 inch màu vàng (lần 1 vào ngày 13/01/2023; lần 2 vào ngày 10/02/2023) với tổng trị giá là 39.000.000 đồng; bị cáo đều mang bán số tài sản trên cho anh Đ, với tổng số tiền là 15.550.000 đồng; Bị cáo xác nhận có trách nhiệm bồi thường theo yêu cầu của ông T, anh Đ. Ngoài ra, khoảng tháng 01/2023, T đã có hành vi gian dối để anh T tin là thật và đã giao xe moto Vecstar biển kiểm soát 98H8-L8 và giấy tờ xe, trị giá 3.925.000 đồng cho bị cáo, bị cáo đã bán xe cho ông D được 2 triệu đồng và ăn tiêu hết; Bị cáo xác nhận có trách nhiệm bồi thường cho ông D.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trịnh Quốc T về tội Trộm cắp tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo tội Trộm cắp tài sản từ 28 đến 32 tháng tù; tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 8 đến 10 tháng tù; Tổng hợp hình phạt của cả hai tội là từ 36 đến 42 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; Buộc bị cáo bồi thường theo yêu cầu của ông T, anh Đ và ông D; Tịch thu sung công điện thoại đã thu giữ của bị cáo; Tịch thu tiêu hủy chiếc chìa khóa do không còn giá trị sử dụng.

Căn cứ vào nội dung vụ án, các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự và không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định khởi tố, truy tố của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện được coi là hợp pháp.

[2]. Hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa Trịnh Quốc T khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện, lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng, kết luận giám định, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa và tài liệu khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên đủ cơ sở kết luận:

Tại quán karaoke Liberty - 408 La Thành, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội, Trịnh Quốc T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 03 bộ đầu hát karaoke nhãn hiệu VietKTV HD Pro màu trắng kèm màn hình VietKTV 22 inch màu vàng vào ngày 13/01/2023, trị giá 19.500.000 đồng và 03 bộ đầu hát karaoke nhãn hiệu VietKTV HD Pro màu trắng kèm màn hình VietKTV 22 inch màu vàng vào ngày 10/02/2023, trị giá 19.500.000 đồng; để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Ngoài ra, khoảng tháng 01/2023, tại 408 Đê La Thành, T đã có hành vi gian dối để anh T tin là thật và giao xe và giấy tờ xe moto Vecstar, biển kiểm soát 98H8-L8 cho bị cáo, bị cáo đã mang bán và lấy tiền chi tiêu cá nhân.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nêu trên của bị cáo đã phạm tội Trộm cắp tài sản; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Hành vi gian dối để bị hại tin và giao tài sản cho bị cáo đã phạm vào tội Lừa đảo chiêm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố bị cáo theo các tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do không có nơi ở, bị cáo đã được đại diện Hộ kinh doanh Karaoke tự do - L cho ăn nghỉ tại quán, bị cáo lợi dụng lòng tốt của người đã tạo điều kiện cho mình có nơi cư trú để 02 lần lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại nên phạm vào tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Ngoài ra, bị cáo lợi dụng lòng tin để đánh lừa, chiếm đoạt tài sản của đồng nghiệp; Trước khi thực hiện hành vi bị cáo đã có sự chuẩn bị, tính toán và thực hiện hành vi đến cùng thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật; Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung và cần tổng hợp hình phạt theo Điều 55 Bộ luật hình sự.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ tỏ ra ăn năn hối cải nên xem xét, áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Xét bị cáo không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền.

[4]. Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với Hộ kinh doanh Karaoke tự do - L do ông T đại diện đã nhận lại 01 bộ đầu hát karaoke nhãn hiệu VietKTV HD Pro màu trắng kèm theo màn hình VietKTV 22 inch màu vàng; 05 bộ còn lại trị giá 32.500.000 đồng không thu hồi được, bị hại yêu cầu bồi thường số tiền 32.500.000 đồng; bị cáo xác nhận có trách nhiệm bồi thường cho bị hại, nên ghi nhận.

- Đối với anh Nguyễn Xuân Đ: Trong quá trình mua bán các bộ đầu hát, T đều nói đây là hàng thanh lý của quán karaoke, do chủ quán hát bảo T bán hộ. Nhận thấy: Việc anh Đ mua 06 bộ đầu hát T là ngay tình, bị cáo xác nhận có trách nhiệm bồi thường cho anh Đạt số tiền 4.600.000 đồng; do đó, yêu cầu bồi thường của anh Đ đối với bộ đầu hát là có căn cứ nên chấp nhận.

- Đối với ông Phạm Tuấn D: Ông D mua xe moto nhãn hiệu Vecstar biển kiểm soát 98H - L8, khi mua ông D có kiểm tra thấy biển kiểm soát xe đúng với Giấy đăng ký xe. Ông D đã giao nộp lại xe cho cơ quan công an và yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền mua xe là 2.000.000 đồng. Nhận thấy: Việc ông D mua xe là ngay tình, bị cáo xác nhận có trách nhiệm bồi thường cho ông D số tiền 2.000.000 đồng; do đó, yêu cầu bồi thường của ông D là có căn cứ nên chấp nhận.

- Đối với bị hại Trần Văn T: Quá trình điều tra, do cần tiếp tục xác minh làm rõ đối với tài liệu, đồ vật liên quan nên Cơ quan điều tra - Công an quận Đống Đa đã ra Quyết định số 08 ngày 07/8/2023 tách hành vi, tài liệu, vật chứng về chiếc xe mô tô Vecstar biển kiểm soát 98H8-L8 để điều tra làm rõ về nguồn gốc. Quá trình điều tra cũng như tại Đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 23/10/2023, anh T có quan điểm: do xe đã tách ra vụ án khác nên không yêu cầu bị cáo bồi thường và không có ý kiến gì khác; Do vậy, Hội đồng xét xử không xét về trách nhiệm bồi thường của bị cáo đối với anh T trong vụ án hình sự này. Trường hợp giữa anh T và bị cáo có tranh chấp dân sự về bồi thường thì anh T có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác đối với bị cáo.

[5]. Vật chứng thu giữ của bị cáo:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen 128Gb: Xét thấy, bị cáo đã dùng điện thoại vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung công theo Điều 47 Bộ luật hình sự.

- 01 chiếc chìa khóa màu đen hình hộp chữ nhật: Xét thấy, bị hại từ chối nhận lại vì sau khi phát hiện mất tài sản bị hại đã thay khóa khác, chìa khóa không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với 2 tài khoản đã nhận tiền chuyển khoản mang tên Nghiêm Xuân C và Nguyễn Thị Phương Đ:

Đối với anh Nghiêm Xuân C: Tại cơ quan điều tra, anh C xác nhận anh có đăng ký tài khoản ngân hàng TPbank số 0000059L7 để sử dụng cá nhân. Khoảng cách đây 01 năm, do T không có tài khoản ngân hàng và bị mất giấy tờ cá nhân nên không đăng ký mở tài khoản được, do đó anh C đã cho T mượn và sử dụng tài khoản số 0000059L7. Anh C không sử dụng tài khoản ngân hàng này nữa và không biết việc T sử dụng tài khoản ngân hàng vào mục đích vi phạm pháp luật. Do đó, cơ quan điều tra không đề cập đến việc xử lý hình sự đối với anh Nghiêm Xuân C.

Đối với chị Nguyễn Thị Phương Đ: Tại cơ quan điều tra, chị Đ xác nhận: Ngày 11/02/2023, T có nhắn tin qua ứng dụng Messenger cho chị và nói không cầm theo điện thoại để kiểm tra việc nhận tiền qua tài khoản nên nhờ chị nhận hộ tiền vào tài khoản của chị, sau đó chị chuyển lại cho T sau. Do là bạn bè nên chị đã tin tưởng, cung cấp cho T tài khoản ngân hàng MBbank số 034710L3 đứng tên chị để nhận tiền, sau đó chị đã chuyển lại toàn bộ số tiền nhận được cho T. Chị Đ không biết nguồn gốc số tiền mà T nhờ nhận hộ cũng như không biết số tiền trên là do T phạm tội mà có, không thu lợi gì từ sự việc trên. Do đó, cơ quan điều tra không đề cập đến việc xử lý hình sự đối với Nguyễn Thị Phương Đ.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 174; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 55 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Quốc T phạm các tội "Trộm cắp tài sản" và "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Quốc T 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 09 (chín) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2023.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 585, Điều 587, Điều 589 Bộ luật dân sự; Điều 106, 135, Điều 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án).

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc Trịnh Quốc T bồi thường cụ thể như sau:

+. Bồi thường Hộ kinh doanh Karaoke tự do - L do ông T đại diện số tiền 32.500.000 đồng;

+. Bồi thường anh Nguyễn Xuân Đ số tiền 4.600.000 đồng.

+. Bồi thường ông Phạm Tuấn D số tiền 2.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được bồi thường có đơn yêu cầu thi hành án, người phải bồi thường còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải bồi thường theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành án xong.

- Xử lý vật chứng: Tịch thu sung công 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen 128Gb (Imei: 353812080386122); Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa màu đen hình hộp chữ nhật, cạnh bo tròn, kích thước khoảng (5x2x1)cm, trên chìa khoá có bốn nút bấm hình vuông màu xanh, ký hiệu đen (tình trạng như biên bản giao, nhận vật chứng số 314 ngày 19/9/2023).

- Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.955.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 334/2023/HS-ST

Số hiệu:334/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về