Bản án về tội trộm cắp tài sản số 333/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 333/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 326/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 344/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

TLHN -Sinh năm 1989; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi sinh: Hà Nội; HKTT: Số 4A, dãy H, tổ 1, phường Kiến Hưng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Bố đẻ: TMT – Sinh năm 1954; Mẹ đẻ: LTT – Sinh năm 1960; Anh, chị, em ruột: 02 người (bị cáo là thứ nhất); Tiền sự: Không.

Tiền án: 02 tiền án;

- Bản án số 211/2021/HS-ST ngày 25/10/2021, TAND quận Hà Đông, Hà Nội xử 12 tháng tù giam về tội Cố ý gây thương tích (chưa được xóa án tích);

- Bản án số 244/2021/HS-ST ngày 17/11/2021, TAND quận Hà Đông, Hà Nội xử 09 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích);

Nhân thân:

- Ngày 01/3/2016, Công an quận Hà Đông ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền.

- Bản án số 286/2010/HS-ST ngày 29/9/2010, TAND quận Hà Đông, Hà Nội xử 21 tháng 13 ngày tù giam về tội Cưỡng đoạt tài sản và 6.000.000 đồng về tội Cho vay lãi nặng (đã được xóa án tích);

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. Danh chỉ bản số 589 ngày 10/7/2023 lập tại Công an quận Hà Đông.

- Bị hại: Anh BĐĐ, sinh năm 2004; HKTT: xã Đoàn Đào là chị gái của anh BĐĐ; Địa chỉ hiện nay: Số 02 ngõ 1 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Trãi. Có Đơn xin vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị BTHA, Sinh năm: 1996, Địa chỉ: P2403, I5 chung cư Imperia Smartcity Tây Mỗ; Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 01/7/2023, TLHN đi bộ một mình quanh khu vực vườn hoa Hà Đông để xem ai có tài sản sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến ngõ 01, phố Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Trãi, N thấy một chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh, BKS: 89B1-X của anh BĐĐ (Sinh năm: 2004, trú tại: Số 2, ngõ 1, phố Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Trãi) đang dựng trước cửa nhà chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa điện. Sau khi quan sát không có người trông giữ, N đi lại gần, lén lút dắt chiếc xe máy này ra ngoài đầu ngõ rồi mở ổ khóa điện, nổ máy, điều khiển xe bỏ đi. Trên đường đi N đi vào cửa hàng sửa xe “Nam Kha” (Địa chỉ: Lô 37 khu giãn dân, đường Chiến Thắng, phường Văn Quán) và nhờ anh TVT (Sinh năm:

1992; Trú tại: Xã Trực Hưng là chủ cửa hàng) tháo biển số xe ra, anh T đồng ý tháo giúp N biển số xe ra và không lấy tiền. Quá trình tháo biển số xe, anh T không nói chuyện với N nên không biết gì nguồn gốc chiếc xe này. Sau khi tháo biển số xe N cất vào trong cốp xe và điều khiển xe đến hầm chung cử CT4A, KĐT Xa La, phường Phúc La gửi xe tại đây. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 03/7/2023, N quay lại đây để lấy xe, khi điều khiển xe ra trạm soát vé thì lực lượng bảo vệ tại đây thấy xe của N không có biển số nghi ngờ N trộm cặp chiếc xe này nên đã trình báo cơ quan Công an. Sau đó, N được mời về trụ sở Công an phường Nguyễn Trãi làm việc, tại đây N đã đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình như trên.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh, số khung: 5802EY636271, số máy: JF58E0522111 bên trong có biển kiểm soát: 89B1- X do Trinh Lê Hoài Nam tự giao nộp.

Ngày 07/8/2023, Cơ quan điều tra đã có văn bản yêu cầu định giá số 137 đối với tài sản bị trộm cắp. Tại bản kết luận định giá tài sản số 160/KL-HĐĐGTS ngày 04/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận (Bút lục 34):

“01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, số khung: 5802EY636271, số máy: JF58E0522111 không mang biển kiểm soát, trị giá 18.600.000 đồng.” Quá trình điều tra xác định TLHN có tiền sử bệnh tâm thần. Ngày 20/7/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 527 trưng cầu Viện Pháp y tâm thần Trung ương giám định tình trạng tâm thần của Nam. Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 334/KLGĐ ngày 28/9/2023 kết luận:

“- Trước, trong thời điểm gây án ngày 01/7/2023 và tại thời điểm giám định bị can TLHN không bị bệnh tâm thần.

- Tại các thời điểm trên bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.” Trước cơ quan điều tra, TLHN đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận định giá và các tài liệu, chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập hợp pháp hiện có trong hồ sơ vụ án.

Tại cáo trạng số 324/CT-VKS-HĐ ngày 26/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo TLHN về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy bị cáo TLHN về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nam từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét.

Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hà Đông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định khởi tố, truy tố của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện đúng như nội dung cáo trạng phản ánh, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận định giá, phù hợp về thời gian, địa điểm, diễn biến của vụ án và các tài liệu đã thu thập được. Nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 01/7/2023, tại trước nhà số 02, ngõ 1, phố Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Trãi, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu; TLHN đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh, BKS: 89B1-X của anh BĐĐ trị giá 18.600.000 đồng.

Đối với TVT là chủ cửa hàng sửa xe “Nam Kha” (Địa chỉ: Lô 37 khu giãn dân, đường Chiến Thắng, phường Văn Quán) có hành vi tháo biển số xe chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh, BKS: 89B1-X cho TLHN. Khi tháo biển số xe, anh T không biết chiếc xe trên do TLHN trộm cắp mà có, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh, BKS: 89B1- X đăng ký tên chị BTHA (Sinh năm: 1996, HKTT: xã Đoàn Đào là chị gái của anh BĐĐ). Tại Cơ quan điều tra, chị HA trình bày: chị mua chiếc xe máy năm 2016, đăng ký tên chị và sử dụng đến năm 2022 chị HA anh Đ làm phương tiện đi lại. Tra cứu xe không nằm trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Ngày 14/8/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 119 bằng hình thức trao trả lại chiếc xe trên cho anh Đ là chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: sau khi nhận lại xe máy Anh BĐĐ không có yêu cầu đề nghị gì khác.

Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo TLHN về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang dư luận. Bị cáo nhân thân xấu, có 02 tiền án tại Bản án số 211/2021/HS-ST ngày 25/10/2021, TAND quận Hà Đông, Hà Nội xử 12 tháng tù giam về tội Cố ý gây thương tích và Bản án số 244/2021/HS-ST ngày 17/11/2021, TAND quận Hà Đông, Hà Nội xử 09 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản đều chưa được xóa án tích nay bị cáo lại phạm tội trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, cho thấy bị cáo coi thường pháp luật, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Hội đồng xét xử cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có điều kiện kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về quyết định truy tố bị Nam về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và đề nghị xử phạt bị cáo Nam từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

Xét mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì cần phải có biện pháp cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe phòng ngừa chung nên cần phạt tù giam đối với bị cáo.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 331, Điều 333, Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo TLHN phạm tội Trộm cắp tài sản. Xử phạt bị cáo TLHN 18 (mười tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2023.

2. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng(hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm (chưa nộp).

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 333/2023/HS-ST

Số hiệu:333/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về