TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:
Phạm Văn Th, sinh năm 1988 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lê Thị T và 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2016);
Tiền án có 01: Ngày 07/6/2017 Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 24/02/2019 đã chấp hành xong hình phạt tù, đến nay chưa được xóa án tích.
Tiền sự có 01: Ngày 27/12/2019 Công an huyện Lập Thạch ra quyết định xử phạt vi phạm hành vi hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc, ngày 20/5/2020 đã nộp phạt, đến nay chưa được xóa.
Nhân thân: Ngày 31/12/2010 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Che giấu tội phạm”, đã chấp hành xong, đến nay được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/4/2020 (có mặt);
- Bị hại: Chị Khổng Thị Đ, sinh năm 1968; trú tại: Thôn Đ, xã X, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Anh Trần Quốc T, sinh năm 1983; trú tại: Thôn Đ, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);
+ Chị Lê Thị T, sinh năm 1987; trú tại: Thôn H, xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);
- Người làm chứng: Anh Phùng Văn C, sinh năm 1988; trú tại: Thôn L, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 18/4/2020, Phạm Văn Th điều khiển xe máy biển kiểm soát 88D1-xxxxx chở Trần Quốc T đi uống thuốc Methadone tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Vĩnh Phúc. Khoảng 10h30’ cùng ngày, khi về đến chợ M thuộc Tổ dân phố H, thị trấn H, huyện L, Th bảo T ở ngoài trông xe để Th vào chợ mua thức ăn. Khi đi đến khu vực bán quần áo trong chợ M thì nhìn thấy trên càng xe lôi chở quần áo của chị Khổng Thị Đ (là người bán quần áo trong chợ M) có treo 01 chiếc túi xách màu đen, không có người trông giữ nên Th nảy sinh ý định trộm cắp. Th đi đến lấy túi xách đi được khoảng 3m thì anh Phùng Văn C phát hiện, truy hô. Th hoảng sợ ném chiếc túi xách xuống đất rồi bỏ chạy thì bị bị lực lượng Công an thị trấn H bắt giữ, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Sau khi nhận được trình báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch đã tiến hành khám nghiệm hiện trường với đầy đủ thành phần và thu giữ vật chứng liên quan.
Căn cứ Yêu cầu định giá tài sản của Cơ quan điều tra, ngày 22/4/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lập Thạch có văn bản số số 361 kết luận: 01 điện thoại di động OPPO màu hồng, số IMEI 1: 865251033439814, IMEI 2: 865251033439 được định giá 1.700.000 đồng.
Về vật chứng vụ án thu giữ: Đối với 01 chiếc túi xách màu đen, kích thước (23 x 15)cm, quai dài 60cm bên trong có số tiền 2.625.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng, quá trình điều tra làm rõ là tài sản hợp pháp của chị Khổng Thị Đ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch đã trả lại cho chị Đ. Chị Đ không yêu cầu bồi thường gì khác.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 88D1- xxxxx, màu đỏ đen, sau khi Th bị bắt, Trần Quốc T đi về trả cho chị Lê Thị T (vợ Th). Quá trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản của vợ chồng bị cáo Th.
Tại Cơ quan điều tra bị can đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân như nêu trên.
Bản Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 16/6/2020, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Phạm Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm Văn Th đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt: Phạm Văn Th từ 12 đến 15 tháng tù.
Không phạt bổ sung, đề nghị xác nhận cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho bị hại.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị hại chị Khổng Thị Đ trình bày: Chị đã nhận được tài sản nay không có yêu cầu gì về dân sự và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Th.
Bị cáo Phạm Văn Th nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của liên quan, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá tài sản …. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 18/4/2020, tại khu vực bán quần áo trong chợ M thuộc tổ dân phố H, thị trấn H, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, Th trộm cắp 01 chiếc túi xách màu đen bên trong có 01 điện thoại di động Oppo trị giá 1.700.000 đồng và 2.625.000 đồng của chị Khổng Thị Đ để trên càng xe lôi của chị Đ. Tổng giá trị tài sản bị cáo Th trộm cắp là 4.325.000 đồng.
Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác do bị cáo Phạm Văn Th thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là thanh niên có sức khỏe, nhưng bị cáo không chịu làm ăn lương thiện, mà ăn chơi đua đòi trộm cắp tài sản lấy tiền ăn tiêu. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật là cần thiết nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Phạm Văn Th có 01 tiền án đó là: Ngày 07/6/2017 Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 24/02/2019 đã chấp hành xong hình phạt tù, đến nay chưa được xóa án tích. Nên trường hợp này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra ngày 27/12/2019 Công an huyện Lập Thạch ra quyết định xử phạt vi phạm hành vi hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc, ngày 20/5/2020 đã nộp phạt, đến nay chưa được xóa; Ngày 31/12/2010 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Che giấu tội phạm”, đã chấp hành xong, đến nay được xóa án tích. Do đó cần áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù một thời gian phù hợp mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo không có việc làm, không có tài sản gì nên không cần thiết phải phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Khổng Thị Đ đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[6]. Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 chiếc túi xách màu đen, kích thước (23 x 15)cm, quai dài 60cm bên trong có số tiền 2.625.000 đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng, quá trình điều tra làm rõ là tài sản hợp pháp của chị Khổng Thị Đ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch đã trả lại cho chị Đ là đúng chủ sở hữu.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 88D1- xxxxx, màu đỏ đen, sau khi bị cáo Th bị bắt, Trần Quốc T đi về trả cho chị Lê Thị T (vợ Th). Quá trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản của vợ chồng bị cáo Thìn không liên quan đến hành vi phạm tội.
[7]. Đối với Trần Quốc T, Cơ quan điều tra đã triệu tập nhiều lần nhưng T hiện không có mặt tại địa phương. Bị cáo Th khai nhận không bàn bạc, trao đổi gì với T về việc trộm cắp tài sản. Do vậy đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
[8]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 18/4/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2020/HS-ST
Số hiệu: | 33/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về