Bản án về tội trộm cắp tài sản số 32/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH SƠN LA

 BẢN ÁN 32/2021/HSST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/ 9/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2021/TLST- HS ngày 08/9/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST-HS ngày 10/9/2021 đối với bị cáo.

Trần Văn B, sinh 24/9/1991 tại huyện Y; nơi cư trú: Bản Thồng Phiêng, xã Chiềng Pằn, huyện Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; đảng phái đoàn thể: không. Trình độ văn hóa: 9/12. Con ông (không xác định), con bà Trần Thị Thoa; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án: có 01 tiền án ngày 05/11/2019 bị TAND huyện Yên Châu xử phạt 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/7/2021 cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Anh Hà Văn S; nơi cư trú: Bản Co Muồng, xã Chiềng Sại, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La (vắng mặt có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h ngày 03/7/2021 Trần Văn B từ nhà đi xe ôm đến xã Phiêng Côn, huyên B đòi nợ, sau khi đòi nợ xong do không có xe về nên nảy ý định trộm cắp tài sản, khoảng 3h ngày 04/7/2021 B nhìn thấy nhà anh Hà Văn S có 01 chiếc xe máy BKS 26B2-42141 để dưới gầm sàn, xe không rút chìa khóa B quan sát không thấy ai nên vào dắt xe ra khỏi cổng sau đó nổ xe và điều khiển xe về nhà và sau đó đến quán sửa chữa xe của anh Phạm Văn T, trú tại tiểu khu 26, xã Cò Nòi, Mai Sơn mượn cờ lê tháo biển số cất vào trong cốp xe rồi điều khiển xe về Yên Châu. Đến 16h ngày 06/7/2021 B điều khiển xe đến thị trấn B vào quán uống nước thì bị công an bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp đưa về cơ quan điều tra làm rõ.

Tại cơ quan điều tra công an huyện B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội trộm cắp tài sản là 01 chiếc xe máy nói trên.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc xe máy hiệu HONĐA loại WAVERSX màu đen xanh không biển số, có số máy JA38E0468312, số khung 3804KY005407 trong cốp xe có 01 biển số: 26B2-42141.

Ngày 08/7/2021 cơ quan điều tra Công an huyện B yêu cầu định giá tài sản. Tại bản kết luận định giá số: 553/KL-HĐGĐ ngày 14/7/2021 của hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận: 01 chiếc xe máy hiệu HONĐA loại WAVERSX màu đen xanh biển số: 26B2-42141 có số máy JA38E0468312, số khung 3804KY005407 giá trị 14.000.000đ (mười bốn triệu đồng).

Ngày 07/9/2021 VKSND huyện B, tỉnh Sơn La có bản cáo trạng số: 25/CT- VKS-BY truy tố Trần Văn B về tội trộm cắp tài sản, quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự (BLHS). Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX:

+ Hình phạt: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo từ 15-18 tháng. Thời gian tính từ ngày bị bắt 06/7/2021.

+ Vật chứng: áp dụng khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 BLHS: Chấp nhận cơ quan điều tra đã trả lại tài sản 01 chiếc xe máy hiệu HONĐA loại WAVERSX màu đen xanh biển số: 26B2-42141 số máy JA38E0468312, số khung 3804KY005407 cho bị hại anh Hà Văn S.

+ Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

+ Án phí HSST: áp dụng khoản 2 các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

-Người bị hại là anh Hà Văn S đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng bị hại anh Hà Văn S có đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa cần áp dụng khoản 1 Điều 292 BLTTHS vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát viên tham gia trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong BLTTHS và bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, do đó HĐXX khẳng định các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận ngày 03/7/2021 sau khi đi đòi nợ xong do không có phương tiện đi về nhà nên khi thấy tài sản là 01 chiếc xe máy dựng dưới sàn, quan sát thấy không có chủ tài sản đã nảy ý định phạm tội, sau khi trộm xong bị cáo đã điều khiển xe đi chơi, sợ bị phát hiện nên đã vào quán mượn dụng cụ tháo biên số xe cất vào trong cốp xe, ngày 6/7/2021 khi điều khiển xe đến thị trấn huyện Bắc Yên, thì bị công an bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giam cho đến ngày xét xử. VKSND huyện B truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 173 BLHS quy định: "Người nào trộm cắp tài sản của người khác giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm’’.

Ngoài ra tại khoản 5 Điều 173 BLHS còn quy định: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, ..tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe máy, bị cáo đã bất chấp pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh, an toàn xã hội và phải chịu hình phạt theo quy định của BLHS.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: ngày 05/11/2019 bị TAND huyện Yên Châu xử phạt 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản ngày 05/4/2020 ra tù, mặc dù bị cáo đã nộp xong phần án phí HSST nhưng chưa được xóa án tích, ngày 06/7/2021 phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS cần áp dụng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo từng có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp tái phạm điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, do đó HĐXX thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội trong một khoảng thời gian nhất định đủ để cải tạo, giáo dục sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[7] Về vật chứng vụ án: 01 chiếc xe máy hiệu HONĐA loại WAVERSX màu đen xanh biển số: 26B2-42141 số máy JA38E0468312, số khung 3804KY005407 mà cơ quan điều tra đã tạm giữ, xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bị hại, anh Hà Văn S đã có đơn xin lại tài sản và cơ quan điều tra đã trả lại 01 chiếc xe máy đó là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, Tòa cần chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy bị cáo không có tài sản gì có giá, nên không áp dụng. Tại phiên tòa Kiểm sát viên kiểm sát xét xử đề nghị HĐXX áp dụng các điểm khoản nêu trên để xử phạt, về án phí và xử lý vật chứng vụ án theo quy định. Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên là hoàn toàn có căn cứ pháp luật cần chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu theo quy định chung của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuyên bố bị cáo Trần Văn B, phạm tội trộm cắp tài sản. Xử phạt bị cáo Trần Văn B 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 06/7/2021.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 BLHS: Chấp nhận cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La đã trả lại tài sản 01 chiếc xe máy hiệu HONĐA loại WAVERSX màu đen, xanh biển số: 26B2-42141 số máy JA38E0468312, số khung 3804KY005407 cho chủ sở hữu hợp pháp anh Hà Văn S.

3. Hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với bị cáo.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp án phí, bị cáo Trần Văn B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, người bị hại có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

359
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 32/2021/HSST

Số hiệu:32/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về