Bản án về tội trộm cắp tài sản số 314/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 314/2023/HS-ST NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 399/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 357/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh T; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01/01/1994, tại H; Nơi cư trú: Không rõ ràng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 00/12; Họ và tên cha: Không rõ; Họ và tên mẹ: Không rõ; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 44/2013/HSST ngày 04/3/2013 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh H xử phạt 27 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/6/2014 (Đã chấp hành xong án phí).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2023 cho đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Phạm Đoan Diệu T - Sinh năm: 1974; Địa chỉ: Số ...A đường M, phường P, thành phố N, tỉnh H; Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Thị Thanh H - Sinh năm: 1960; Địa chỉ: Số ... đường N, phường T, thành phố N, tỉnh H; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 45 ngày 28/02/2023, Nguyễn Thanh T đi bộ xung quanh khu vực phường Phước Tiến, thành phố N với mục đích để tìm nhà có tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đến nhà số ...A đường M, phường Phước Tiến, thành phố N, T trèo tường vào trong sân thấy có camera, cạnh tường có hộp sơn nên T dùng cây kim loại có một đầu gắn bàn chải bôi sơn lên camera. Sau đó, T mở cửa vào bên trong nhà, thấy trên bàn làm việc tại phòng ngủ tầng 3 có 01 máy tính xách tay hiệu Macbook Pro 13, 01 điện thoại di động Iphone 14 Promax, 01 máy tính bảng hiệu Ipad Pro của chị Phạm Đoan Diệu T thì lén lút lấy trộm rồi mang về cất giấu tại nhà thuê ở địa chỉ 45 đường Sau Ga, phường Phước Tân, thành phố N.

Làm việc tại Cơ quan Công an, Nguyễn Thanh T khai nhận toàn bộ nội dung như trên. Tiến hành khám xét nơi ở của T tại 45 đường Sau Ga, phường Phước Tân, thành phố N, thu giữ được toàn bộ số tài sản nêu trên.

Tại Bản kết luận định định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự số 83/KL-HĐĐGTS ngày 02/3/2023, kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu Macbook Pro 13 - M1/16GB/512GB trị giá 32.061.788 đồng; 01 điện thoại di động Iphone 14 Promax - 512GB trị giá 28.097.300 đồng.

Tại Bản kết luận định định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự số 386/KL-HĐĐGTS ngày 07/9/2023, kết luận: 01 máy tính bảng hiệu Ipad Pro 11 inch màu xám, bộ nhớ 64GB trị giá 10.590.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Thanh T đã trộm cắp là 70.749.088 đồng (Bảy mươi triệu bảy trăm bốn mươi chín nghìn không trăm tám mươi tám đồng).

Ngoài ra, T còn khai nhận vào khoảng 01 giờ, ngày 22/02/2023, tại nhà số 24/10 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường Tân Lập, thành phố N, Nguyễn Thanh T đã trộm cắp số tiền 1.700.000 đồng của anh Nguyễn Đình D.

Tại bản Cáo trạng số 255/CT-VKS-NT ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố Nguyễn Thanh T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Toàn từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng - 03 (Ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

2. Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại là bà Phạm Đoan Diệu T vắng mặt không có lý do; Tuy nhiên đương sự đã có lời khai tại Cơ quan điều tra và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng truy tố:

[3.1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh T đã khai nhận: Khoảng 00 giờ 45 ngày 28/02/2023, tại nhà số .....A đường M, phường Phước Tiến, thành phố N, T đã lén lút trộm cắp 01 (Một) máy tính xách tay hiệu Macbook Pro 13, 01 (Một) điện thoại di động Iphone 14 Promax, 01 (Một) máy tính bảng hiệu Ipad Pro của chị Phạm Đoan Diệu T, với tổng trị giá 70.749.088 đồng (Bảy mươi triệu bảy trăm bốn mươi chín ngàn không trăm tám mươi tám đồng).

[3.2] Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản tiếp nhận nguồn tin tội phạm, biên bản khám xét, biên bản trích xuất dữ liệu hình ảnh camera; Phù hợp với lời khai của bị hại, cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hành vi của Nguyễn Thanh T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 70.749.088 đồng – Thuộc tình tiết định khung tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng số 255/CT-VKS-NT ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy Nguyễn Thanh T về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3.3] Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân; Làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có đủ sức khỏe nhưng không chí thú làm ăn để kiếm tiền chân chính mà liên tiếp thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện bản tính tham lam, tư lợi và xem thường pháp luật. Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần có bản án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và phát huy tính phòng ngừa chung.

[3.4] Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật để bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình và xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

[4.1] Bị hại bà Phạm Đoan Diệu T đã nhận lại toàn bộ tài sản, đồng thời không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại (Bút lục số 15), nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4.2] Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Thanh H xác nhận đã nhận lại xe máy hiệu Suzuki Satria F150 màu xanh đen, biển kiểm soát 79N3-xxxxx; Đồng thời, không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố N đã trả cho chủ sở hữu Phạm Đoan Diệu T các tài sản gồm: 01 (Một) máy tính xách tay hiệu Macbook Pro 13; 01 (Một) điện thoại di động Iphone 14 Promax; 01 (Một) máy tính bảng hiệu Ipad Pro; 01 (Một) sim Vinaphone mã số 8984020001110823xxxx, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 đối với Nguyễn Thanh T;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 03 (Ba) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 314/2023/HS-ST

Số hiệu:314/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về