Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20/6/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2023/TLST- HS ngày 25/5/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2023/QĐXXST-HS ngày 09/6/2023, đối với các bị cáo:

1- Vũ Trọng T, sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Tri Chỉ Phú, xã Thụy Trường, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Trọng T và bà Phạm Thị L.

Nhân thân: Ngày 27/6/2015 T bị Công an phường Trung Hoà, quận cầu Giấy,TP Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý, ngày 30/7/2015 đã chấp hành nộp phạt xong. Ngày 13/01/2016 bị Công an phường Đằng Hải, quận Hải An, TP Hải Phòng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý, ngày 28/3/2016 đã chấp hành nộp phạt xong. Tại bản án số 26/2023/HS-ST, ngày 31/5/2023 Vũ Trọng T bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, bản án chưa có hiệu lực pháp luật.

Tiền án: Tại Bản án số 03 ngày 20/01/2017 của TAND huyện An Lão, TP Hải Phòng tuyên phạt Vũ Trọng T 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong. Tại Bản án số 09 ngày 07/03/2017 của TAND Quận Hải An, TP Hải Phòng tuyên phạt Vũ Trọng T 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong. Tại Bản án số 29 ngày 10/05/2017 của TAND huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình tuyên phạt Vũ Trọng T 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt 02 bản án số 03 ngày 20/01/2017 của TAND huyện An Lão, TP Hải Phòng và Bản án số 09 ngày 07/03/2017 của TAND Quận Hải An, TP Hải Phòng, bị cáo T phải chấp hành hình phạt chung là 03 năm 06 tháng tù, ngày 13/01/2020 chấp hành xong hình phạt tù. Tại Bản án số 08 ngày 18/03/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, T bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS, ngày 27/04/2022 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương từ ngày 11/02/2023 đến ngày 14/02/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương cho đến nay - Tham gia tố tụng tại điểm cầu thành phần - Có mặt.

2- Đinh Văn N, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Thôn Tân Cường, xã An Tân, huyện T, tỉnh Thái Bình; ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:

06/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông ông Đinh Văn T và bà Nguyễn Thị L; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 17/7/2019 Đinh Văn N bị TAND huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình có Quyết định số 10/2019/QĐ- TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đinh Văn N chưa thi hành quyết định trên. Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/02/2023 đến ngày 14/02/2023 chuyển tạm giam đến nay - Tham gia tố tụng tại điểm cầu thành phần - Có mặt.

- Bị hại: Ông Phan Đình H, sinh năm 1948. Địa chỉ Thôn Tranh Xuyên, xã Đ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (Tham gia tố tụng tại điểm cầu trung tâm) - Có mặt

- Người có quyền lợi liên quan:

Chị Hoàng Thị V, sinh năm 1982. Địa chỉ Thôn Tranh Xuyên, xã Đ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt)

Ông Vũ Trọng T, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn Tri Chỉ Phú, xã Thụy Trường, huyện T, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt)

Anh Nguyễn Anh Đ, sinh năm 1992. Địa chỉ: Thôn Chỉ Bồ, xã Thụy Trường, huyện T, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt)

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Viết H, sinh năm 1995. Anh Nguyễn Duyên H, sinh năm 1994. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ ngày 07/02/2023, Vũ Trọng T, (là người bị kết án chưa được xoá án tích lại tiếp tục phạm tội) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 99E1-308.39, nhãn hiệu Honda, loại xe wave alpha, màu cam của bố đẻ là ông Vũ Trọng Tải đi sang nhà Đinh Văn N, để đón, rủ Nghĩa đi trộm cắp xe máy. Khi gặp Nghĩa, T bảo với Nghĩa “có đi nhảy xe với tao không”, Nghĩa hiểu và biết T rủ đi trộm cắp xe máy nên đồng ý bảo “ừ”. Nghĩa cầm theo 01 bộ vam phá khoá xe mô tô tự chế của T đưa ngày 06/02/2023, ra ngoài cổng T hỏi “đồ nhẩy xe đâu” thì Nghĩa đút tay công vào túi áo khoác bên phải, mũi vam đút vào túi áo khoác bên trái của T. Rồi T điều khiển xe chở Nghĩa ngồi phía sau, đi hướng từ Thái Thuỵ, Thái Bình theo quốc lộ 37 đến thị trấn Vĩnh Bảo, đi qua cầu Chanh sang địa phận huyện Ninh Giang, Hải Dương, đi qua vòng xuyến gần cầu Chanh (lối ra thứ nhất) đi khoảng 400 mét thì đổi lái, Nghĩa chở T đi thẳng khoảng 40 mét đến ngã tư có đèn tín hiệu giao thông cảnh báo thì rẽ phải vào đường thôn, đi qua cổng 01 công ty rồi đi thẳng khoảng 02 km thì T và Nghĩa phát hiện thấy chiếc mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu đen - xám - bạc, BKS 34 E1 - 323.63, chìa khoá cắm ở ổ khóa điện của xe, (đăng ký xe mang tên chị Hoàng Thị Vui, SN: 1982, HKTT: thôn Tranh Xuyên, xã Đ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) do ông Phan Đình Huần (bố chồng chị Vui) dựng trong lề đường trước lối vào của khu vườn chuyển đổi của ông Huần, đầu xe hướng về phía đường quốc lộ 37, đuôi xe quay về hướng ngã ba. T đi thẳng đến ngã ba rẽ trái khoảng 5 m, T bảo Nghĩa “xe vẫn cắm chìa khóa, quay lại làm” thì Nghĩa vòng xe quay lại đi qua vị trí xe trộm cắp khoảng 4 mét thì Nghĩa dừng xe, T xuống xe và đi đến chỗ chiếc xe máy rồi mở khoá, điều khiển xe ra quốc lộ 37, Nghĩa điều khiển xe đi theo sau, cả hai cùng đi hướng lên Cầu Chanh sang huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng, đi theo cung đường trước về huyện T, tỉnh Thái Bình. Khi về đến khu đường mới thuộc xã Thụy Trường, huyện T, T gặp Nguyễn Duyên Hòa, T gạ bán xe cho Hòa. Do Hòa không đủ tiền nên không mua xe. Sau đó, T và Nghĩa tiếp tục đi đến khu vực Cầu Hồ thuộc xã Thụy An, huyện T thì gặp Nguyễn Anh Đào và Nguyễn Viết Hà, tại đây, T bán chiếc xe trộm cắp được cho Đào, bảo với Đào là xe của bố T, giấy tờ mai T đưa sau, không nói cho Đào biết xe T trộm cắp mà có. Đào tin tưởng nên mua chiếc xe máy trộm cắp với giá 4.500.000 đồng và bảo T bớt cho 100.000 đồng, T đồng ý. Đào đưa cho T số tiền 4.400.000 đồng và đi xe máy trộm cắp về nhà sử dụng đi lại. Sau khi bán xe mô tô vừa trộm cắp được xong, T chia cho Nghĩa 1.800.000 đồng và bảo với Nghĩa “Cái này tôi tự làm, bù vào tiền xe, tiền xăng đi lại nên cho bạn 1.800.000 đồng”, Nghĩa đồng ý. Sau đó Nghĩa chở T về nhà Nghĩa, rồi T đi xe Wave alpha màu cam về nhà T, số tiền bán xe trộm cắp được T và Nghĩa đã chi tiêu cá nhân hết Tại bản kết luận định giá tài sản số 04 ngày 14/02/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương kết luận: Tại thời điểm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu đen - xám - bạc, BKS 34 E1 - 323.63 bị chiếm đoạt trị giá là 12.000.000 đồng Cáo trạng số 27/CT-VKS-NG, ngày 23/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Vũ Trọng T về tội: Trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự và Đinh Văn N về tội: Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, công nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang là đúng và xin giảm nhẹ hình phạt. Bị hại đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Vũ Trọng T, Đinh Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt Vũ Trọng T từ 02 năm 3 tháng đến 2 năm 9 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/02/2023. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 ; điểm s, i khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt Đinh Văn N từ 9 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/02/2023. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và hủy bỏ 01 mũ lưỡi trai, bằng vải, màu trắng; 01 đôi giầy thể thao, bằng vải, màu xám; 01 chiếc quần bò nam, màu xám, cỡ size 32; 01 chiếc áo phao nam, cỡ size XL, màu xanh của bị cáo Vũ Trọng T; Tịch thu và hủy bỏ 02 chiếc dép quai hậu màu đen có cùng kích thước dài 27 cm, rộng 08 cm; 01 áo khoác màu đen có mũ trùm đầu; 01 quần vải dài màu đen của bị cáo Đinh Văn N. Tịch thu và hủy bỏ 01 tay công nối vuông góc bằng 02 đoạn thép; 03 mũi vam bằng thép có hình dạng, kích thước tương đương nhau, chuôi vam màu đen, lưỡi vam dẹt. Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ninh Giang, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng; do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Biên bản xác định hiện trường, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 07/02/2023, tại đội 12, thôn Tranh Xuyên, xã Đ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, Vũ Trọng T là người bị kết án chưa được xoá án tích, cùng Đinh Văn N đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu đen - bạc, BKS 34E1 - 323.63 của ông Phan Đình Huần, sinh năm: 1948, HKTT: thôn Tranh Xuyên, xã Đ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Trị giá tài sản bị trộm cắp là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng chẵn).

[3] Bị cáo Vũ Trọng T đã tái phạm, nay lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm; đây cũng là lần thứ 5 bị cáo T bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng không có căn cứ bị cáo T lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống nên HĐXX không xác định bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang truy tố Vũ Trọng T để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Đinh Văn N về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, các bị cáo đều có nhân thân xấu, do vậy cần phải xem xét áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra.

[5] Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vũ Trọng T, Đinh Văn N thành khẩn khai báo và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS; bị cáo Vũ Trọng T chiếm đoạt tài sản có giá trị quy định tại khoản 1 nhưng do tái phạm nguy hiểm nên bị truy tố tại khoản 2 Điều 173 BLHS, do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo Đinh Văn N phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Trong vụ án này Vũ Trọng T là người chuẩn bị phương tiện, công cụ, rủ rê Đinh Văn N đi trộm cắp tài sản, trực tiếp trộm cắp tài sản nên có vai trò chính trong vụ án, Đinh Văn N đồng phạm với T với vai trò giúp sức. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo; xét thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục, đồng thời phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[7] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Chị Hoàng Thị Vui đã nhận lại xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu đen - xám - bạc, BKS 34 El -323.63, không yêu cầu gì thêm. Anh Nguyễn Anh Đào là người mua chiếc xe mô tô của T và Nghĩa trộm cắp được, không yêu cầu T hoàn trả số tiền mua xe 4.400.000 đồng. HĐXX không đặt ra giải quyết.

[9] Xử lý vật chứng: Đối với 01 tay công nối vuông góc bằng 02 đoạn thép;

03 mũi vam bằng thép có hình dạng, kích thước tương đương nhau, chuôi vam màu đen, lưỡi vam dẹt là công cụ phạm tội, tịch thu và hủy bỏ. Đối với mũ lưỡi trai, bằng vải, màu trắng; 01 đôi giầy thể thao, bằng vải, màu xám; 01 chiếc quần bò nam, màu xám, cỡ size 32; 01 chiếc áo phao nam, cỡ size XL, màu xanh của bị cáo Vũ Trọng T đã qua sử dụng do ông Vũ Trọng Tải giao nộp và 02 chiếc dép quai hậu màu đen có cùng kích thước dài 27 cm, rộng 08 cm; 01 áo khoác màu đen có mũ trùm đầu; 01 quần vải của bị cáo Đinh Văn N giao nộp đều không còn giá trị sử dụng, các bị cáo không lấy lại, cần tịch thu và hủy bỏ.

[10] Đối với 01 Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave, BKS: 99 E1- 308.39, màu sơn vàng- đen - bạc và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số:

011025, xe nhãn hiệu Honda, loại Wave, biển số đăng ký 99 E1 - 308.39, màu sơn vàng - đen - bạc, số máy HC12E7197109, số khung 125SY197060, tên chủ xe: Nguyễn Thị Biên là phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội do ông Vũ Trọng Tải giao nộp. Theo ông Tải trình bày: Năm 2020, ông Tải mua chiếc xe máy trên của người (không rõ lai lịch, địa chỉ) ở TP. Thái Bình, tỉnh Thái Bình với giá khoảng 12.000.000 đồng, khi mua xe ông Tải nhận giấy đăng ký xe và sử dụng xe để đi lại. Ngày 07/02/2023, ông Tải cho T mượn chiếc xe máy trên. Lời khai của chủ xe chị Biên xác định: Khoảng tháng 5/2020 (chị Biên không nhớ ngày) chị Biên bị kẻ gian trộm cắp chiếc xe máy trên tại thôn Hồng Phúc, xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ngày 09/5/2023 Cơ quan CSÐT huyện Ninh Giang đã bàn giao chiếc xe mô tô cùng toàn bộ giấy tờ liên quan cho Cơ quan CSÐT huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định để điều tra theo thẩm quyền là đúng quy định của pháp luật.

[11] Ông Vũ Trọng Tải cho T mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, BKS: 99 E1-308.39, sau đó T đã sử dụng xe làm phương tiện để đi trộm cắp tài sản, ông Tải không biết T và Nghĩa sử dụng phương tiện của mình vào việc phạm tội. Anh Nguyễn Duyên Hòa là người được T gạ bán chiếc xe máy trộm cắp, anh Hòa không mua và không biết xe máy do T phạm tội mà có. Anh Nguyễn Anh Đào là người mua chiếc xe máy T và Nghĩa trộm cắp được nhưng không biết xe do T và Nghĩa phạm tội mà có. HĐXX không xem xét xử lý.

[12] Về án phí: Bị cáo Vũ Trọng T va Đinh Văn N bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Trọng T, Đinh Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản” Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Trọng T 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/02/2023.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 ; điểm s, i khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Văn N 10 (Mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/02/2023.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu và hủy bỏ 01 mũ lưỡi trai, bằng vải, màu trắng; 01 đôi giầy thể thao, bằng vải, màu xám; 01 chiếc quần bò nam, màu xám, cỡ size 32; 01 chiếc áo phao nam, cỡ size XL, màu xanh; 02 chiếc dép quai hậu màu đen có cùng kích thước dài 27 cm, rộng 08 cm; 01 áo khoác màu đen có mũ trùm đầu; 01 quần vải dài màu đen; 01 tay công nối vuông góc bằng 02 đoạn thép; 03 mũi vam bằng thép có hình dạng, kích thước tương đương nhau, chuôi vam màu đen, lưỡi vam dẹt. (Vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Giang, theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/5/2023, giữa Công an huyện Ninh Giang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Giang).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Trọng T, Đinh Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những nội dung có liên quan trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2023/HS-ST

Số hiệu:31/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về