Bản án về tội trộm cắp tài sản số 304/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 304/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 304/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 312/2023/QĐXXST-HS ngày 03/11/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: NĐH SN: 1993 Tên gọi khác: Không; HKTT: Số 58 HĐ, phường Hàng Đ, quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội Chỗ ở: P.2109.T8.TC, phường Vĩnh T, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: không Trình độ văn hóa: 12/12 Họ và tên bố: NVD Đã chết Họ và tên mẹ: NTB Sinh năm: 1957 Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba.

Nhân thân: Ngày 14/02/2011, Công an phường Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền án, tiền sự:

- Bản án số 92/2014/HSST ngày 28/4/2014 của TAND quận Ba Đình, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Bản án số 415/2017/HSST ngày 25/12/2017 của TAND quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án số 378/2020/HSST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 10 tháng tù về tội Sử dụng mạng viễn thông thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 16 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù của Bản án số 415/2017/HSST ngày 25/12/2017 của TAND quận Đống Đa, Hà Nội buộc bị cáo chấp hành hình phạt là 28 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/8/2020. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/12/2022. Bị cáo chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/8/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Bị hại:

Chị NTT, sinh năm 1998 HKTT: thôn YS, xã BV, huyện Ba Vì, TP. Hà Nội Chỗ ở: số 2 ngõ 162/50 NVC, phường Bồ Đề, quận Long Biên, TP. Hà Nội (Chị T có mặt tại phiên tòa)

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

- Bà NTB, sinh năm 1957 Trú tại: P.2109.T8.TC, phường Vĩnh T, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội

- Anh ĐCS, sinh năm 1985 Trú tại: thôn BL 2, xã ĐL, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái

- Anh BMV, sinh năm 1987 Trú tại: tổ 3 khu T 10, phường Hoàng Bồ, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

- Anh BVV, sinh năm 2001 Trú tại: ĐE, xã L, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

(Bà B, anh S có mặt. Anh V, anh V vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13h15’ ngày 09/5/2023, Công an phường Long Biên nhận được đơn trình báo của chị NTT (SN: 1998, HKTT: Thôn YS, Xã BV, Huyện Ba vì, Hà Nội, chỗ ở: Số 2 ngõ 162/50 NVC, P. Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội) về việc: khoảng 14h10’ ngày 02/5/2023, chị T đến cửa hàng Internet 88 G, địa chỉ: Số 88 CL, phường Long Biên, Long Biên, Hà Nội để chơi điện tử. Khi ngồi chơi chị T để chiếc điện thoại Iphone 13 Pro Max, dung lượng: 128Gb, màu xanh dương có lắp sim số thuê bao 0983125X ở trên bàn cạnh bàn phím. Đến khoảng 15h00’ phút cùng ngày, chị T phát hiện bị mất trộm điện thoại. Chị T đến gặp và nhờ anh TVQ (SN: 1991, HKTT: xóm L 1, xã HC, Thanh Sơn, Phú Thọ) là quản lý quán internet xem lại camera an ninh thì phát hiện vào lúc 14h40’, nam thanh niên là NĐH ngồi bên cạnh đã lấy trộm điện thoại của chị T. Tuy nhiên, do bận việc riêng nên đến ngày 09/5/2023, chị T mới đến Công an phường Long Biên để trình báo vụ việc.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ hình ảnh camera tại cửa hàng Internet 88 G ghi nhận: Vào lúc 14h40’ ngày 02/05/2023, khi chị T đang ngồi chơi điện tử thì nam thanh niên mặc áo phông cộc tay màu đen, quần đùi màu đen, đi dép lê màu đen ngồi bên tay trái chị T đã lấy trộm chiếc điện thoại di động chị T để trên bàn sát phía trên bàn phím rồi bỏ đi.

Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã thu giữ hình ảnh camera tại tầng 21 tòa T8 khu đô thị TC xác định: Vào lúc 12h27’ ngày 02/05/2023, có 01 nam thanh niên đi từ Phòng 2109 T8 TC là nơi ở của NĐH đi ra có đặc điểm, mặc trang phục giống với nam thanh niên đã lấy trộm điện thoại của chị T.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho chị NTT và anh TVQ nhận dạng NĐH, kết quả chị T và anh Q đều nhận dạng được H và khẳng định H chính là nam thanh niên đã lấy trộm chiếc điện thoại của chị T vào ngày 02/05/2023.

Ngoài ra, chị T còn cung cấp thông tin sau khi xảy ra sự việc chị T phát hiện phần thông tin cá nhân của gmail: dp05@gmail.com (đây là địa chỉ gmail của chị T) bị thay đổi từ số điện thoại 0983125X là số điện thoại mà chị T sử dụng sang số điện thoại 0988049X.

Tiến hành thu giữ điện tín số điện thoại 0988049X thể hiện chủ thuê bao là bà NTB (SN: 1957, HKTT: số 58 HĐ, phường Hàng Đ, Hoàn Kiếm, Hà Nội) là mẹ của NĐH. Tại Cơ quan điều tra bà B khai: Số điện thoại 0988049X là số điện thoại mà bà B đã mua và đăng ký chính chủ sử dụng từ khoảng năm 2019. Đến cuối năm 2022, khi H chấp hành án phạt tù về thì bà B đưa sim số điện thoại 0988049X cho H sử đụng. Ngày 08/08/2023, bà B thấy sim số điện thoại 0988049X để trong túi xách của H ở nhà nên đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra để làm rõ.

Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã triệu tập NĐH đến trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan điều tra NĐH không khai nhận hành vi phạm tội. H khai: Khoảng 11h00’ ngày 02/05/2023, H ở nhà thì PAT (tức T bi) (SN: 1991, HKTT: 157(N08-LK08) khu đô thị VP, phường Phú La, Hà Đông, Hà Nội) gọi điện cho H nhờ hỏi thuê nhà. H đi ra gặp T và thuê phòng ở TC cho T ở. Sau đó, H đi chơi với T đến khoảng 23h00’ cùng ngày thì về nhà. H khẳng định ngày 02/05/2023 H không đi ra khỏi khu đô thị TC, phường Vĩnh T và không sang địa bàn quận Long Biên. Ngoài ra, H khai chỉ sử dụng số điện thoại 0856477X còn số điện thoại 0988049X là số điện thoại của bà B, H không sử dụng số thuê bao này.

Tại Cơ quan điều tra PAT khai: Khoảng 12h00’ ngày 02/05/2023, T cùng bạn bè đi lên khu du lịch ĐĐ, Sóc Sơn, Hà Nội đến trưa ngày 03/05/2023 mới về. T khẳng định ngày 02/05/2023 không gặp NĐH và không nhờ H thuê phòng ở khu đô thị TC như H trình bày. T khai H sử dụng số điện thoại 08564X77 và thỉnh thoảng thấy H sử dụng số 0988049X.

Cơ quan điều tra đã xác minh và xác định số điện thoại 08564X77 là H mua trả góp của anh ĐTQ (SN: 1993, HKTT: xóm BC, xã TH, Đại Từ, Thái Nguyên) từ tháng 4/2023. Mỗi tháng H phải trả cho anh Q 8.900.000 đồng, trả trong vòng 11 tháng. Hàng tháng H sử dụng tài khoản X72858 mở tại Ngân hàng ACB của H chuyển tiền trả góp sim đến tài khoản 199322229X mở tại Ngân hàng Techcombank của anh Q. Quá trình xác minh tại Ngân hàng ACB xác định tài khoản X72858 mang tên NĐH và đăng ký số điện thoại 08564X77 để giao dịch. Hiện số điện thoại 08564X77 đang đứng tên anh NVQ (Sinh năm 1995, HKTT: xóm 7 xã LH, Quảng Yên, Quảng Ninh) là người cùng kinh doanh bán sim số đẹp với anh ĐTQ.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội, Tổng Công ty hạ tầng mạng VNPT Net đối với các số điện thoại 0988049X, 08564X77 và số điện thoại 0983125X xác định:

- Tại thời điểm 13 giờ 58 phút ngày 02/05/2023,vị trí cột sóng của số điện thoại 0988049X là tại số 24 phố T, phường Long Biên, Long Biên, Hà Nội. (gần khu vực cửa hàng Internet 88 G). Đến 15 giờ 32 phút ngày 02/05/2023, vị trí cột sóng của số điện thoại 0988049X là tại số 30 phố PV, phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội.

- Tại thời điểm 15 giờ 36 phút ngày 02/05/2023, vị trí cột sóng của số điện thoại 08564X77 là tại số 11 ngõ 80 phố PV, phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội.

- Từ thời điểm 14 giờ 53 phút ngày 02/05/2023 đến 16 giờ 30 phút ngày 02/05/2023, vị trí cột sóng của số điện thoại 0983125X là tại số 30 phố PV, phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội (trùng với vị trí cột sóng của số điện thoại 0988049X).

- Vào lúc 14 giờ 47 phút ngày 02/05/2023, sim số điện thoại 0983125X (sim của bị hại) đã bị tháo ra khỏi máy điện thoại Iphone 13 Pro max và lắp vào máy điện thoại Nokia có số imei: 357332562177317.

- Từ ngày 30/04/2023 đến ngày 03/05/2023, sim số điện thoại 08564X77 của H lắp vào máy điện thoại Nokia có số imei: 357332562677316.

Ngày 21/09/2023, Cơ quan điều tra đã thu giữ được chiếc điện thoại Nokia màu đen có số imei 1: 357332562177317, imei 2: 357332562677316 do anh ĐCS (SN: 1985, HKTT: Thôn BL 2, xã ĐL, Văn Chấn, Yên Bái) đang sử dụng. Anh S trình bày chiếc điện thoại này anh S mua ở cửa hàng điện thoại gần cổng vào khu đô thị Times City vào khoảng cuối tháng 8/2023 để sử dụng.

Do vậy, đủ căn cứ để xác định sau khi lấy trộm được chiếc điện thoại của chị T, NĐH đã tháo sim số điện thoại 0983125X và lắp vào khe sim 1 (lúc đó khe sim 2 đang lắp số điện thoại 08564X77 của H) của chiếc máy điện thoại Nokia màu đen có số imei 1: 357332562177317, imei 2: 357332562677316.

Ngày 14/09/2023, Cơ quan điều tra đã thu giữ được chiếc điện thoại di động Iphone 13 Pro Max, dung lượng: 128Gb, màu xanh dương có số imei: 353967815988905 (vật chứng của vụ án) do anh BVV (SN: 2001, HKTT: Đè E, xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long, Quảng Ninh) đang sử dụng. Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra anh V trình bày: Khoảng đầu tháng 6/2023, anh V có mua chiếc điện thoại Iphone 13 Pro Max của anh BMV (SN: 1987, HKTT: Tổ 3 khu T 10, phường Hoành Bồ, thành phố Hạ Long, Quảng Ninh với giá 17.500.000 đồng để sử dụng. Khi mua anh V không biết chiếc điện thoại là tài sản trộm cắp.

Tại Cơ quan điều tra anh BMV khai: Anh V mở cửa hàng kinh doanh buôn bán điện thoại tại số 24 tổ 2 khu T, phường Hoàng Bồ, thành phố Hạ Long, Quảng Ninh. Khoảng đầu tháng 6/2023, anh V lên trang mạng facebook thì thấy có người rao bán chiếc điện thoại di động Iphone 13 Pro Max, dung lượng: 128Gb, màu xanh dương với giá 17.200.000 đồng nên đã hỏi mua. Sau đó, người bán chuyển máy đến cho anh V bằng hình thức Ship Code (khi anh V nhận máy sẽ trả tiền cho người giao hàng). Đến ngày 05/06/2023, anh V bán lại chiếc máy điện thoại Iphone 13 Pro Max cho anh V với giá 17.500.000đ (Mười bảy triệu năm trăm nghìn đồng). Khi mua máy anh V không biết nguồn gốc chiếc điện thoại là tài sản do trộm cắp được vì lúc nhận máy anh V cũng đã kiểm tra thì thấy máy ở trạng thái được khôi phục cài đặt gốc. Hiện anh V không còn lưu thông tin của người bán máy và không nhớ được đơn vị giao hàng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh tiếp người bán máy cho anh V.

Vật chứng thu giữ:

+ Thu của bà NTB: 01 sim điện thoại số thuê bao 0988049X, số seri: 8984048000917420422.

+ Thu của anh ĐCS: 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen có số imei 1: 357332562177317, imei 2: 357332562677316 màu đen đã qua sử dụng.

+ Thu của anh BVV: 01 điện thoại Iphone 13 Pro Max, dung lượng: 128Gb, màu xanh dương có số imei: 353967815988905 đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận định giá số 90/KL-HĐĐGTS ngày 22/05/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro max, 128, màu xanh chị T bị mất trộm có giá trị: 20.475.000 đồng (Hai mươi triệu bốn trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng); 01 sim điện thoại số: 0983125X giá 0 đồng.

Cáo trạng số: 285/CT-VKS ngày 24/10/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố NĐH về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị hại, người làm chứng thấy rằng: Hành vi của bị cáo NĐH đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào điểm g khoản 2 Điều 173 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điều 38 BLHS 2015.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo H từ 30 đến 36 tháng tù.

Về dân sự: Tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại. Những người liên quan không có yêu cầu nên không xem xét.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại và trả lại anh ĐCS 01 điện thoại di động Nokia đã qua sử dụng.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị hại, người liên quan, biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12h00’ ngày 02/5/2023 tại số 88 CL, phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội; bị cáo NĐH có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro max 128GB màu xanh lắp sim điện thoại số: 0983125X có giá trị: 20.475.000 đồng (Hai mươi triệu bốn trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng) của chị NTT.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Bị cáo phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng TNHS: không

- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hứa sẽ sửa chữa nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Bộ luật hình sự bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu, liên tục thực hiện các hành vi phạm tội. Bị cáo phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm nên cần buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù trong khung hình phạt mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

[5] Về dân sự:

Bị hại đã nhận lại tài sản bồi thường, không có đề nghị gì thêm Ghi nhận sự tự nguyện của anh BVV không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

[6] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại và trả lại anh ĐCS 01 điện thoại di động Nokia đã qua sử dụng là có căn cứ.

[7] - Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

[8] - Về quyền kháng cáo:

Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điều 38; điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo NĐH phạm tội: Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt Bị cáo 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/8/2023.

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại Viettel, số seri: 8984048000917420422 - Trả lại anh ĐCS 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có số imei 1: 357332562177317, imei 2: 357332562677316 màu đen đã qua sử dụng (Hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/10/2023)

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 304/2023/HS-ST

Số hiệu:304/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về