TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 302/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 322/2023/TLST- HS ngày 04 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 320/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Thành Đ; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 07 tháng 4 năm 1992, tại H; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nơi cư trú: Số .......... đường H, phường P, thành phố N, tỉnh H; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên cha: Trần Văn A, sinh năm: 1963; Họ và tên mẹ: Mai Thị Kim L, sinh năm: 1966; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 213/2014/HS-ST ngày 03/9/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh H xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 21/01/2017.
Bị cáo Trần Thành Đ bị tạm giữ từ ngày 24/3/2023 đến ngày 02/4/2023, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Ông Nguyễn Thanh C - Sinh năm: 1997; Địa chỉ: Thôn Đ, xã V, thành phố N, tỉnh H; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
* Người làm chứng: Anh Lương Hoàng P - Sinh năm: 2002; Địa chỉ: Số ....... L, phường T, thành phố N, tỉnh H; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ 20 phút ngày 24/3/2023, Trần Thành Đ đi bộ lang thang tới khu vực đường Lê Thành Phương, phường Phương Sài, thành phố N thấy một chiếc xe ô tô biển kiểm soát 79C-xxxx (Do anh Nguyễn Thanh C chở hàng cho hãng giao hàng J&T Express), đang đậu sát vỉa hè trước địa chỉ nhà số 20 Lê Thành Phương, phường Phương Sài, thành phố N. Đ quan sát thấy có một giỏ xách màu đen để trong cabin, dưới vô lăng, nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Quan sát ung quanh, thấy không ai để ý và trông coi nên Đ lén lút mở cánh cửa bên phụ, lấy trộm túi xách (Bên trong có: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, số tiền 201.000 đồng, 01 cục sạc dự phòng màu trắng, 01 ví da và một số giấy tờ của anh Nguyễn Thanh C), rồi cầm túi xách bỏ đi thì bị anh C cùng anh Lương Hoàng P phát hiện, bắt giữ Đ cùng tang vật giao cho Công an phường Phương Sài. Làm việc tại Cơ quan Công an, Trần Thành Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như trên.
Tại Kết luận định giá tài sản số 128/HĐĐG ngày 29/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố N, xác định chiếc điện thoại Iphone 12 Promax – 512 GB có giá trị là: 17.000.000 đồng; Đối với 01 ví da màu đen, bên trong có: 201.000 đồng tiền mặt, 01 thẻ Căn cước công dân, 01 bằng lái xe ô tô hạng C cùng toàn bộ giấy tờ mang tên Nguyễn Thanh C; 01 túi xách màu đen và 01 cục sạc pin dự phòng màu trắng không đủ thông tin định giá.
Tại bản Cáo trạng số 259/CT-VKS-NT ngày 02 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố Trần Thành Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa:
1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Thành Đ và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đ từ 09 (Chín) tháng đến 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
2. Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa, bị hại là anh Nguyễn Thanh C vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Người làm chứng là anh Lương Hoàng P vắng mặt không có lý do. Xét thấy, các đương sự đã có lời khai tại Cơ quan Điều tra và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự có tên nêu trên theo quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên:
Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng truy tố:
[3.1] Tại phiên tòa, bị cáo Đ đã khai nhận: Vào khoảng 08 giờ 20 phút ngày 24/3/2023, lợi dụng lúc anh Nguyễn Thanh C để túi xách trong ca bin xe ô tô biển kiểm soát 79C- xxxx, khi xe đang dừng đỗ tại trước địa chỉ 20 Lê Thành Phương, phường Phương Sài, thành phố N, Đ đã lén lút trộm cắp túi xách, bên trong có các tài sản gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, số tiền mặt 201.000 đồng, 01 cục sạc dự phòng màu trắng, 01 ví da và một số giấy tờ của anh Nguyễn Thanh C; Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là: 17.201.000 đồng (Mười bảy triệu hai trăm lẻ một ngàn đồng).
[3.2] Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Phù hợp với lời khai của bị hại và của người làm chứng, cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hành vi của Trần Thành Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Cáo trạng số 259/CT-VKS-NT ngày 02 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Đạt về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3.3] Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân; Làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có đủ sức khỏe nhưng không chí thú làm ăn để kiếm tiền chân chính mà lại thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện bản tính tham lam, tư lợi và xem thường pháp luật. Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phát huy tính phòng ngừa chung.
[3.4] Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật để bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình và xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Thanh C đã nhận lại tài sản, đồng thời không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố N đã thu giữ các đồ vật gồm: 01 (Một) túi xách (Trong đó có: 01 (Một) điện thoại Iphone 12 Promax (512GB); 01 (Một) cục sạc pin dự phòng màu trắng; 01 (Một) ví da bên trong có số tiền mặt 201.000đ (Hai trăm lẻ một ngàn đồng) và một số giấy tờ cá nhân mang tên Nguyễn Thanh C): Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố N đã trả lại cho chủ sở hữu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 đối với Trần Thành Đ;
Xử phạt: Bị cáo Trần Thành Đ 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ trước đó (Từ ngày 24/3/2023 đến ngày 02/4/2023).
2. Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Trần Thành Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 302/2023/HS-ST
Số hiệu: | 302/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về