Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIÊN KHÁNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 24/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2023/HSST ngày 29 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2023/QĐXXST-HS ngày 11/4/2023, các Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2023/HSST-QĐ ngày 09/5/2023, số 24/2023/HSST-QĐ ngày 30/5/2023, số 28/2023/HSST-QĐ ngày 28/6/2023 và số 34/2023/HSST-QĐ ngày 28/7/2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy T (tên gọi khác: Bò Nghé, N), sinh năm 1994 tại huyện D, tỉnh K; nơi cư trú: T5, thị trấn D, huyện D, tỉnh K; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn N1, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Xuân H, sinh năm: 1976; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 24/5/2016, bị Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 34/2016/HSST;

- Ngày 07/7/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số: 242/2016/HSST;

Quyết định tổng hợp hình phạt số 07/QĐTHHP ngày 08/9/2016 của Tòa án nhân dân thành phố N buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án nêu trên là 04 năm 03 tháng tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/3/2020, đã nộp án phí.

- Ngày 08/02/2023, bị Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 03/2023/HSST (trộm cắp ngày 21/8/2022), thời gian chấp hành hình phạt tù từ ngày 07/11/2022.

Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam S1 theo bản án số 03/2023/HSST ngày 08/02/2023 của TAND huyện D. Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Phan Thanh H1 (tên gọi khác: L), sinh năm 1994 tại huyện D, tỉnh K; nơi cư trú: T5, thị trấn D, huyện D, tỉnh K ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: không biết chữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phan Văn S, sinh năm: 1967 và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm: 1964; chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 15/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 05/2014/HSST; Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/02/2015; đã nộp án phí.

Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện D từ ngày 05/12/2022. Có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Hoàng Anh T2 (tên gọi khác: Cu C), sinh năm 1996 tại huyện D, tỉnh K; nơi cư trú: Thôn M, xã B, huyện D, tỉnh K; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn A, sinh năm 1972 và bà Phan Thị Mỹ Ll, sinh năm 1976; có vợ là bà Thái Thị Mỹ L2; có 02 con (lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2020). Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

- Ngày 28/6/2013, bị Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 30/2013/HSST.

- Ngày 14/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số: 04/2014/HSST. Tổng hợp hình phạt chưa chấp hành tại bản án số: 30/2013/HSST ngày 28/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện D, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 02 năm 04 tháng 16 ngày tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 03/02/2016; đã nộp án phí.

- Ngày 15/3/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số: 07/2023/HSST; thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án (trộm cắp tài sản ngày 29/6/2022).

Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện D từ ngày 06/12/2022; có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Hồng T3 (tên gọi khác: Cu M), sinh năm 1997 tại huyện D, tỉnh K; nơi cư trú: T6, thị trấn D, huyện D, tỉnh K; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hùng Đ, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Hương H2, sinh năm 1973; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không - Nhân thân:

+ Ngày 16/12/2011, bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn 24 tháng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” theo Quyết định số 3137/QĐ- UB-NC ngày 15/12/2011 của Chủ tịch UBND huyện D. Chấp hành xong ngày 16/12/2013.

+ Ngày 06/10/2014, bị Công an huyện D ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 25/QĐ-XPVPHC đối với hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện D từ ngày 05/12/2022; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Phi D, sinh năm: 1977(vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện D, tỉnh K - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đỗ Xuân H3, sinh năm: 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 4, xã Diên Phú, huyện D, tỉnh K 2. Bà Nguyễn Thị T4, sinh năm: 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn D, xã D, huyện D, tỉnh K

3. Ông Nguyễn Vũ H4, sinh năm: 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn L, xã D, huyện D, tỉnh K

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 07/6/2022, tại quán game “7 Nàng tiên” trên đường H, thị trấn D, T gặp và rủ Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2 và Nguyễn Hồng T3 đi trộm cây cảnh bán lấy tiền tiêu xài, cả 03 đồng ý. T2 dùng xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát 79N5-xxxx của T để chở T đến khu vực chợ Đ1 trên đường bờ kè Nam S, thị trấn D. Tại đây, T thấy 01 xe mô tô có gắn rơ mooc (không xác định được biển kiểm soát, chủ sở hữu) nên lấy xe để đi chở cây. Cả 02 điều khiển xe quay về quán game nơi H1 và T3 đang chờ. Sau đó, T điều khiển xe mô tô vừa lấy được (xe có gắn rơ mooc) chở H1, T2 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 79N5-xxxx chở T3 đến khu vực ngã tư đường tránh Quốc lộ A và đường V (thuộc thôn T, xã D, huyện D), nhóm T nhìn thấy 01 cây mai trồng trong chậu xi măng (chậu xi măng đã bị vỡ) của ông Nguyễn Phi D để trước cổng nhà. Cả bốn cùng nhổ cây mai bỏ lên xe mô tô gắn rơ mooc rồi chở đi cất giấu tại khoảng đất trống sát nhà trọ “D” nơi T2 đang thuê ở thuộc thôn D, xã D. Sau đó, T tháo rơ mooc, điều khiển xe về lại quán game “7 Nàng Tiên” tiếp tục chơi bắn cá. Đến khoảng 4 giờ sáng cùng ngày, T quay lại nhà trọ của T2, gắn lại rơ mooc rồi điều khiển xe về khu vực chợ Đ1 trả lại. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, T2 đem bán cây mai cho ông Đỗ Xuân H3 (chủ nhà trọ “Diên Phú”) với giá 1.500.000 đồng; khi mua, ông H3 không biết đây là tài sản trộm cắp mà có. Số tiền có được, cả 04 chia nhau tiêu xài hết.

Ngày 16/6/2022, ông Nguyễn Phi D có đơn trình bày sự việc mất tài sản.

Quá trình điều tra, Nguyễn Duy T khai xe mô tô biển kiểm soát 79N5-xxxx là xe do T mua lại tại tiệm bán xe cũ vào tháng 4/2022; hiện không giữ giấy tờ mua bán, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Qua tra cứu, xác định xe mô tô trên đứng tên chủ sử dụng là ông Nguyễn Vũ H4. Ông H4 xác định trước đây ông là chủ sở hữu đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 79N5-xxxx, vào năm 2014, ông đã bán xe cho cửa hàng mua bán xe cũ ở thị trấn D (không xác định được tên cửa hàng) nhưng không làm giấy tờ mua bán. Qua xác minh, chiếc xe này không có trong Cơ sở dữ liệu vật chứng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/BB-HĐĐGTS ngày 08/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện D xác định cây mai của ông Nguyễn Phi D có trị giá 3.000.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản Cáo trạng số: 07/CT-VKSDK ngày 08/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo Nguyễn Duy T, Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2 và Nguyễn Hồng T3 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 01 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

+ Về vật chứng:

- 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát 79N5-xxxx;

- 01 cây mai cao 2m, chu vi gốc 40 cm, chu vi tán cây 1,2m đã trả lại cho ông Nguyễn Phi D.

+ Về dân sự:

- Ông Nguyễn Phi D đã nhận lại tài sản bị trộm cắp; không yêu cầu bị cáo bồi thường.

- Ông Đỗ Xuân H3 yêu cầu bị cáo bồi thường 1.500.000 đồng; bị cáo chưa bồi thường.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Duy T, Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2 và Nguyễn Hồng T3: xử phạt bị cáo T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo H1 từ 09 tháng đến 01 năm tù; xử phạt bị cáo T2 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo T3 từ 09 tháng đến 01 năm tù; về trách nhiệm dân sự: giải quyết theo quy định; về xử lý vật chứng: tịch thu, sung quỹ 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát 79N5-xxxx; về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận, tại lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy T, bị hại ông Nguyễn Phi D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Xuân H3, bà Nguyễn Thị T4, ông Nguyễn Vũ H4 vắng mặt nhưng đều có yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 290, Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người trên.

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo H1, T2, T3 đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Thanh vắng m nhưng quá trình điều tra, bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 01 giờ ngày 07/6/2022, Nguyễn Duy T, Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2 và Nguyễn Hồng T3 đã lén lút trộm cắp 01 cây mai trị giá 3.000.000đ (ba triệu đồng) của ông Nguyễn Phi D tại thôn T, xã D, huyện D. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 07/CT- VKSDK ngày 08/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo là những thanh niên có sức khỏe nhưng lười lao động, vì muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để bán lấy tiền. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về nhiều tội khác nhau nhưng vẫn không chịu thay đổi lối sống, không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của các bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, do đó phải xử lý các bị cáo thật nghiêm khắc và cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian thì mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đồng thời mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Trong vụ án, các bị cáo T, H1, T2, T3 phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm có tính chất giản đơn. Trong đó, bị cáo T là người khởi xướng và thực hành; bị cáo T2 là người giúp sức, thực hành và tiêu thụ tài sản, bị cáo T3 và bị cáo H1 có vai trò thực hành ngang nhau nhưng bị cáo H1 có nhân thân xấu hơn bị cáo T3, do đó, cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Thanh cao hơn đối với các bị cáo H1, T3, T2; mức hình phạt đối với bị cáo T2 cao hơn bị cáo T3, H1 và mức hình phạt đối với bị cáo T3 thấp hơn bị cáo H1 mới thỏa đáng với vai trò của từng bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, khi lượng hình, cần xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật để an tâm cải tạo, sớm trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội.

[7] Về tổng hợp hình phạt:

[7.1] Đối với bị cáo Nguyễn Duy T: Theo bản án số: 03/2023/HS-ST ngày 08/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh K thì bị cáo Nguyễn Duy T bị xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/11/2022. Áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định Bộ luật Hình sự. Thời gian bị cáo T đã chấp hành hình phạt tù đối với bản án số: 03/2023/HS-ST ngày 08/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh K từ ngày 07/11/2022 đến nay (ngày 24/8/2023) được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung.

[7.2] Đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Anh T2: Theo bản án số: 07/2023/HSST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh K thì bị cáo Nguyễn Hoàng Anh T2 bị xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định Bộ luật Hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại ông Nguyễn Phi D đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Xuân H3 yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 1.500.000đ. Các bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông H3, do đó, cần buộc bị cáo Nguyễn Duy T, Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2, Nguyễn Hồng T3 liên đới bồi thường cho ông Đỗ Xuân H3 số tiền 1.500.000đ, mỗi bị cáo phải bồi thường 375.000đ.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Vật chứng là cây mai đã trả lại cho chủ sở hữu trong quá trình điều tra là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với vật chứng đang tạm giữ là 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát 79N5-xxxx là phương tiện để các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Hình sự.

[10] Ông Đỗ Xuân H3 là người mua lại cây mai nhưng ông H3 không biết tài sản này do các bị cáo trộm cắp được mà có nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông H3.

[11] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Duy T, Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2, Nguyễn Hồng T3 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm S khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Duy T, Nguyễn Hoàng Anh T2.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Phan Thanh H1, Nguyễn Hồng T3.

Căn cứ các Điều 136, 290, 292, 293, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587, Điều 589, Điều 590 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Điều 23, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy T, Nguyễn Hoàng Anh T2, Phan Thanh H1, Nguyễn Hồng T3 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù của bản án số: 03/2023/HS-ST ngày 08/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh K về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo chấp hình phạt chung của 02 bản án là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 07/11/2022. Thời gian bị cáo đã chấp hành hình phạt tù từ ngày 07/11/2022 đến ngày 24/8/2023 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Anh T2 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù của bản án số: 07/2023/HSST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh K về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo chấp hình phạt chung của 02 bản án là 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 06/12/2022.

- Xử phạt bị cáo Phan Thanh H1 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 05/12/2022.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng T3 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 05/12/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo Nguyễn Duy T, Nguyễn Hoàng Anh T2, Phan Thanh H1, Nguyễn Hồng T3 liên đới bồi thường cho ông Đỗ Xuân H3 số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), trong đó, mỗi bị cáo phải bồi thường 375.000đ (Ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung quỹ 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát 79N5-xxxx.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 23/8/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D và Chi cục Thi hành án dân sự huyện D).

3. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Duy T, Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2, Nguyễn Hồng T3 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: các bị cáo Phan Thanh H1, Nguyễn Hoàng Anh T2, Nguyễn Hồng T3 được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị cáo Nguyễn Duy T, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về