Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2023 đối với:

* Bị cáo: Phạm Thành T (tên gọi khác B), sinh ngày 04 tháng 12 năm 1988, tại tỉnh Long An. Địa chỉ: ấp B, xã A, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T1, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1968; bị cáo có vợ là chị Huỳnh Thị Xuân P1, sinh năm 1992; bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2019 và nhỏ nhất sinh năm 2022;

- Tiền sự; tiền án: Không.

- Nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự về việc cầm vàng giả, đã bị Công An huyện Nhà Bè xử phạt hành chính số 24832/QĐ ngày 26/4/2013 số tiền 1.500.000 đồng, đã chấp hành hình thức xử phạt xong năm 2013.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cơ khí công thương Tinh V

- Người đại diện theo pháp luật: Bà Hồ Thị Tuyết N1 – Chức vụ: Giám đốc. Địa chỉ: Phòng số 1, số 2, số 4, tầng 5, Tòa nhà trung tâm dịch vụ Phước Đ, đường 782, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh.

+ Người đại diện theo ủy quyền của bà Hồ Thị Tuyết N1: Bà Nguyễn Thị T2, sinh ngày 26/5/1994 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: tổ 1, ấp 1, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước.

Chỗ ở hiện tại: Phòng số 1, số 2, số 4, tầng 5, tòa nhà trung tâm dịch vụ Phước Đ, đường 782, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vũ Đình H2, sinh ngày 03/3/1991 (có mặt).

Địa chỉ: 2/7 Đại Khối, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Chỗ ở hiện tại: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

2. Anh Lê Quang T3, sinh ngày 27/3/2004 (vắng mặt).

Địa chỉ: 02B/97 Đông Tác, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Chỗ ở hiện tại: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

3. Anh Vũ Đình P2, sinh ngày 26/5/1981 (vắng mặt). Địa chỉ: phố 2, phường C, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Chỗ ở hiện tại: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

4. Công ty Cổ phần thương mại xuất nhập khẩu HTP Mạnh Ph.

Đại diện bà Phạm Thị N2 – Phó giám đốc (vắng mặt) Địa chỉ: ấp 6, xã T, huyện B, tỉnh Long An.

- Người làm chứng: Anh Trần Văn V, sinh ngày 30/9/1992 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã P, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 9/2022, Phạm Thành T đến làm thuê cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cơ khí công thương Tinh V (gọi tắt là Công ty Tinh V) có trụ sở chính tại tầng 5, toà nhà trung tâm dịch vụ Phước Đ – đường 782, xã Phước Đ, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Quá trình làm việc, T được giao làm Tổ trưởng tổ cơ khí thi công công trình lò hơi của Công ty trách nhiệm hữu hạn sản phẩm thể thao giải trí B Việt Nam – Khu công nghiệp Long Gi (gọi tắt là Công ty B) thuộc ấp 4, xã Tân L 1, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Ngày 02/10/2022, do kinh tế gia đình đang gặp khó khăn nên T nảy sinh ý định trộm sắt phế liệu tại công trình lò hơi trên bán lấy tiền. Khoảng 11 giờ cùng ngày, sau khi đi ăn cơm trưa xong, T đến cơ sở thu mua phế liệu của anh Vũ Đình H2, toạ lạc tại ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang gặp H2 hỏi giá sắt phế liệu thì H2 trả lời 7.000 đồng/kg. Lúc này, T kêu bán sắt phế liệu tại công trình lò hơi của Công ty B thì H2 đồng ý và thống nhất đem xe ô tô tải vào công ty chở ra ngoài cân và tính tiền với giá như đã thoả thuận.

Đến 12 giờ cùng ngày, H2 điều khiển xe ô tô tải biển số 47C – X đi cùng cháu ruột tên Lê Quang T3 đến Công ty B. Sau khi xuất trình giấy tờ tuỳ thân tại cổng bảo vệ thì H2 điều khiển xe đến khu vực lò hơi gặp T. Tại đây, T sử dụng xe chuyên dùng để đưa toàn bộ sắt phế liệu lên xe 47C – X. Sau đó, H2 điều khiển xe trên ra cổng thì T lấy giấy xin ra cổng mà trước đó T đã giả chữ ký lãnh đạo công ty để đưa cho anh Trần Văn V là bảo vệ của công ty để anh V cho xe 47C – X vận chuyển sắt phế liệu vừa trộm được ra khỏi cổng Công ty B. Khi xe 47C – X đến vựa phế liệu thì cả 03 tiến hành cân, xác định tổng trọng lượng sắt vụn các loại với nhiều kích cỡ khác nhau là 520kg. H2 đưa cho T số tiền 3.640.000 đồng, T nhận tiền và tiếp tục trở lại công ty làm việc như bình thường.

Đến ngày 04/10/2022, qua kiểm tra hệ thống camera an ninh, công ty B nghi ngờ T, H2 và T3 thực hiện hành vi trộm cắp nên báo cho công ty Tinh V biết. Ngày 05/10/2022, anh Lê Hữu H3 là quản lý công ty Tinh V kiểm tra phát hiện số sắt vụn tại khu vực thi công lò hơi của công ty B nơi mà công ty mình nhận thầu thi công đã bị mất trộm. Đến ngày 10/10/2022, anh đến Công an xã Tân L 1 trình báo vụ việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 426/KL-HĐĐGTS ngày 09 tháng 12 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang kết luận tổng giá trị thành tiền của 520 kg sắt trên là 3.120.000 đồng.

* Vật chứng thu giữ và xử lý:

- Số tiền 3.640.000 đồng. Đây là số tiền do bị cáo tự nguyện giao nộp.

- Đối với 520 kg sắt phế liệu trên: Theo khai nhận của anh Vũ Đình H2 sau khi mua số sắt này thì ngày 08/10/2022, anh đã bán cho anh ruột là Vũ Đình P2. Anh P2 sau khi mua đã bán lại cho Công ty Cổ phần thương mại xuất nhập khẩu HTP Mạnh Ph tại ấp 6, xã Thạnh Đ, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Cơ quan điều tra đã tổ chức xác minh và truy tìm số sắt trên tại công ty Mạnh Ph nhưng không thu hồi được.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Thành T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

* Người đại diện theo ủy quyền của bị hại:

Bà Nguyễn Thị T2 vắng mặt có lời khai: Vào tháng 9/2022, Phạm Thành T đến làm thuê cho công ty TNHH MTV cơ khí công thương Tinh V. T được giao làm Tổ trưởng tổ cơ khí thi công công trình lò hơi của công ty TNHH sản phẩm thể thao giải trí B Việt Nam – Khu công nghiệp Long Gi. Ngày 04/10/2022, qua kiểm tra hệ thống camera an ninh, công ty B nghi ngờ T, H2 và T4 thực hiện hành vi trộm cắp nên báo cho công ty Tinh V biết. Ngày 05/10/2022, anh Lê Hữu H3, là quản lý công ty Tinh V kiểm tra phát hiện số sắt vụn tại khu vực thi công lò hơi của công ty B nơi mà công ty mình nhận thầu thi công đã bị mất trộm. Đến ngày 10/10/2022, anh đến Công an xã Tân L 1 trình báo vụ việc. Được biết lúc 12 giờ ngày 02/10/2022 có 01 xe tải mang biển số 47C – X do tài xế Vũ Đình H2 điều khiển, bị cáo T tự làm giả giấy ra vào cổng Công ty và lợi dụng sơ hở của bảo vệ T đã trộm sắt vụn phế liệu của công ty bán cho vựa phế liệu anh H2. Tài sản mất trộm là 520kg sắt phế liệu, giá trị thành tiền là 3.640.000 đồng. Chị T2 không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền trên và yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nếu có xử lý thì xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vũ Đình H2 khai: Anh là chủ mua phế liệu tại ấp 4, xã Tân L 1, huyện Tân Phước, Tiền Giang. Khoảng 11 giờ 30 phát ngày 02/10/2022 có một thanh niên đến cơ sở thu mua phế liệu gặp H2 hỏi giá sắt phế liệu bao nhiêu một kilogam thì H2 trả lời 7.000 đồng/kg. Người thanh niên này kêu bán sắt phế liệu tại công trình lò hơi của công ty B. H2 hỏi có giấy ra vào cổng không thì thanh niên này nói có giấy tờ ra vào cổng, nên H2 đồng ý. Đến 12 giờ cùng ngày, H2 điều khiển xe ô tô tải biển số 47C – X đi cùng cháu ruột tên Lê Quang T3, đến công ty B. Sau khi xuất trình giấy tờ tùy thân tại cổng bảo vệ thì H2 điều khiển xe đến khu vực lò hơi gặp T. Tại đây, T sử dụng xe chuyên dùng để đưa toàn bộ sắt phế liệu lên xe 47C – X. Sau đó, H2 điều khiển xe trên ra cổng thì T lấy giấy xin ra cổng công ty B và chở phế liệu về đến vựa phế liệu cân ký. Xác định tổng trọng lượng sắt vụn các loại với nhiều kích cỡ khác nhau là 520kg, H2 đưa cho T số tiền 3.640.000 đồng. Đến ngày 08/10/2022 anh H2 nhờ anh Vũ Đình P2 chở số sắt vụn này đến Công ty Cổ phần thương mại xuất nhập khẩu HTP Mạnh Ph tại ấp 6, xã Thạnh Đ, huyện Bến Lức, tỉnh Long An bán lại. Anh H2 không biết tài sản bị cáo trộm của Công ty Tinh V để bán, không yêu cầu bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự.

2. Anh Vũ Đình P2 vắng mặt có lời khai:

Anh là chủ cơ sở thu mua phế liệu Hoàng Anh. Ngày 08/10/2022 anh Vũ Đình H2 (là em ruột anh P2) có kêu anh thu mua lại sắt vụn 520kg, do sắt ít nên anh có chở thêm thùng phi sắt của cơ sở anh đến Công ty Cổ phần thương mại xuất nhập khẩu HTP Mạnh Ph tại ấp 6, xã Thạnh Đ, huyện Bến Lức, tỉnh Long An bán lại được số tiền 12.000.000 đồng. Anh P2 không biết tài sản bị cáo trộm của Công ty Tinh V để bán, anh không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự.

3. Anh Lê Quang T3 vắng mặt có lời khai:

Khoảng 12 giờ ngày 05/10/2022 anh đang ở chơi nhà cậu H2 tại ấp 4, xã Tân L 1. Lúc này, cậu H2 đi vào khu công nghệp Long Gi nên anh xin đi theo chơi. Khi vào cổng thì bảo vệ không cho vào và yêu cầu phải có chứng minh thư mới cho vào cổng, nên anh mượn xe mô tô của bảo vệ chạy về nhà lấy giấy chứng minh cho cậu H2. Khi vào trong Công ty B anh ngồi trong cabin xe chơi game và có đeo tai nghe nên không biết gì phía sau xe. Vào Công ty B được 15 phút thì anh về và cậu H2 về nhà cậu H2. Sau đó, anh lấy xe chạy về nhà ăn cơm.

4. Công ty Cổ phần thương mại xuất nhập khẩu HTP Mạnh Ph Bà Phạm Thị N2 khai: Qua kiểm tra sổ sách giấy tờ lưu trữ của Công ty kết quả xác định ngày 08/10/2022 khách hàng tên “P2” sử dụng phương tiện xe 63C – X đến Công ty bán lại hàng là thùng phi xả phế liệu với trọng lượng sản phẩm là 1.620kg hoàn toàn không có sản phẩm sắt phế liệu nào. Kiểm tra hệ thống lưu trữ máy tính vào các ngày 09/10 – 10/10/2022 thì anh P2 không có đến Công ty giao hàng. Tài sản trên đóng thùng xuất kho trong ngày.

* Người làm chứng:

Anh Trần Văn V vắng mặt có lời khai: Khoảng 10 giờ ngày 05/10/2022 anh ra ca nghỉ tại nhà thì có bảo vệ công ty B gọi nói đang giữ một thanh niên, khi anh chạy đến thì biết Phạm Thành T. Khi đó, anh mới biết ngày 02/10/2022 anh có giải quyết cho chiếc xe tải biển kiểm soát 47C – X do anh Vũ Đình H2 điều khiển ra vào công ty. Chiếc xe tải trên vào Công ty chở sắt, khi ra cổng công ty anh có yêu cầu xuất trình giấy ra cổng thì T có xuất trình giấy ra cổng có xác nhận bằng chữ của người Trung quốc về việc dọn vệ sinh phế liệu sắt, nên anh cho ra cổng.

Tại Cáo trạng số 27/CT-VKS-TP ngày 12/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo Phạm Thành T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, - Viện kiểm sát huyện Tân Phước phát biểu:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định việc truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-TP ngày 12/7/2023 là đúng người, đúng tội không có gì thay đổi và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, 65 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo.

- Xử phạt bị cáo Phạm Thành T từ 01 năm đến 02 năm tù, nhưng cho hưởng án treo.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không xem xét.

- Bị cáo thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

- Bị hại vắng mặt không yêu cầu về trách nhiệm dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh H2 không tranh luận gì.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn lại vắng mặt, nên không có ý kiến tranh luận gì và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy mình sai, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Đình P2; Anh Lê Quang T3; bà Phạm Thị N2 vắng mặt. Người làm chứng anh Trần Văn V vắng mặt. Xét việc các đương sự vắng mặt, nhưng đã có lời khai tại hồ sơ và không yêu cầu về trách nhiệm dân sự và đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự trên.

Công ty Tinh V thi công lắp đặt thiết bị lò hơi cho Công ty B, bị cáo trộm tài sản là của Công ty Tinh V. Công ty B không có yêu cầu gì, nên Tòa án không đưa Công ty B vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

[3.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Thành T đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình là vào ngày 02/10/2022, do kinh tế gia đình đang gặp khó khăn nên T nảy sinh ý định trộm sắt phế liệu tại công trình lò hơi trên bán lấy tiền. Khoảng 11 giờ cùng ngày, T đến cơ sở thu mua phế liệu của anh Vũ Đình H2, gặp anh H2 hỏi giá mua sắt phế liệu bao nhiêu. H2 đồng ý và thống nhất đem xe ô tô tải vào công ty chở ra ngoài cân và tính tiền với giá như đã thoả thuận. Đến 12 giờ cùng ngày, H2 điều khiển xe ô tô tải biển số 47C – X đi cùng cháu ruột tên Lê Quang T3 đến công ty B. Sau khi xuất trình giấy tờ tuỳ thân tại cổng bảo vệ thì H2 điều khiển xe đến khu vực lò hơi gặp T. Tại đây, T sử dụng xe chuyên dùng để đưa toàn bộ sắt phế liệu lên xe 47C – X. Sau đó, H2 điều khiển xe trên ra cổng thì T lấy giấy xin ra cổng mà trước đó T đã giả chữ ký lãnh đạo Công ty để đưa cho anh Trần Văn V là bảo vệ để anh V cho xe 47C – X vận chuyển sắt phế liệu vừa trộm được ra khỏi cổng công ty B. Khi đến vựa phế liệu thì tiến hành cân, xác định tổng trọng lượng sắt vụn các loại với nhiều kích cỡ khác nhau là 520kg. H2 đưa cho T số tiền 3.640.000 đồng, Tiện nhận tiền và tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nên bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3.2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Thành T phạm tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và đúng pháp luật.

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại là tài sản của Công ty Tinh V. Nhằm mục đích muốn có tiền tiêu xài và phục vụ cho lợi ích cá nhân, ý thức lười lao động, tham lam bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác và trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phạm Thành T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra xét thấy, bị cáo Phạm Thành T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo tự nguyện trả lại số tiền thu lợi bất chính; gia đình có hoàn cảnh khó khăn (có xác nhận của Công an địa phương), bị cáo phải ở nhà thuê của cha mẹ vợ, cùng vợ nuôi con nhỏ (sinh năm 2022). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự về việc cầm vàng giả, đã bị xử phạt hành chính năm 2013, đã chấp hành hình thức xử phạt xong. Tuy nhân thân có tiền sự nhưng thời gian đã trên 10 năm nhưng bị cáo không tái phạm hay gây nguy hiểm cho xã hội.

Với tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử xử cân nhắc khi lượng hình để tuyên xử mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Xét bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và các tình tiết ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo đang làm công nhân và có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhận thấy, không cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại nơi giam giữ, cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và nhằm răn đe, phòng ngừa chung.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

[7]. Về vật chứng của vụ án:

- Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xử lý đúng quy định pháp luật.

- Bị cáo đã bán sắt vụn số tiền 3.640.000 đồng. Đây là tiền thu lợi bất chính, nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Bị cáo đã nộp tạm giữ tại Kho bạc nhà nước huyện Tân Phước theo số tài khoản 3949.0.9091600 và đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phước.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9]. Xét phân tích và đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Thành T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1/ Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 50, 65 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thành T 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Thành T cho Ủy ban nhân dân xã An Thới Đông, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Phạm Thành T thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách được thực hiện theo điều 68, điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

2. Về khoản thu lợi bất chính: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Buộc bị cáo giao nộp sung công quỹ nhà nước số tiền thu lợi bất chính 3.640.000 đồng. Bị cáo đã nộp tạm giữ tại Kho bạc nhà nước huyện Tân Phước theo số tài khoản 3949.0.909X0 chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước theo Quyết định số 91/QĐ-CAH-ĐTTH ngày 10/8/2023 của Công an huyện Tân Phước, để thi hành theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Thành T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo Phạm Thành T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Vũ Đình H2 được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Đình P2; anh Lê Quang T3; bà Phạm Thị N2 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về