Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ MỸ HÀO, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 16/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã M, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/ QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2023 và thông báo thay đổi thời gian xét xử số 15/TB – TA ngày 05/5/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Ph (Tên gọi khác T)- Sinh năm 2002, tại xã M, huyện L, tỉnh B; hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã M, huyện L, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do, trình độ văn hóa: 6/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch:Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T; con bà: Hà Thị H; Vợ, con: Chưa có.

Tiền sự: Không Tiền án: Bản án số 06/2020/HS-ST ngày 09/6/2020 của TAND huyện Đài Bắc, tỉnh Hòa Bình xử phạt Nguyễn Văn Ph 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 02/11/2020 bị cáo chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm, ngày 04/02/2021 bị cáo chấp hành xong án phạt tù;

Bị cáo tạm giữ từ ngày 03/02/2023, tạm giam từ ngày 06/02/2022 tại trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên.

* Bị hại : Anh Đinh Văn T – Sinh năm 2000 (Vắng mặt) Địa chỉ : Bản T, xã Ch, huyện M, tỉnh S

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Chị Cù Thị Th – Sinh năm 1994 (Vắng mặt) Địa chỉ : Xóm D, xã V, huyện Th, tỉnh Ph

 * Người làm chứng:

- Anh Chu Văn Th – Sinh năm 1981 (Vắng mặt) Địa chỉ : Tổ dân phố A phường Nh, thị xã M, tỉnh H

- Anh Hoàng Ngọc T – Sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ : Xóm D, xã V, huyện Th, tỉnh Ph

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài hiệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/01/2023 Nguyễn Văn Ph (tên gọi khác là T) liên lạc và nhờ anh Đinh Văn T tìm việc làm hộ. Ph bắt xe khách về xã T, huyện V, tỉnh H được anh T đón đến phòng trọ của chị Cù Thị Th đang trọ tại thôn B, xã T, huyện V, tỉnh H là bạn gái anh T rồi cùng chơi ở đó đến ngày 30/01/2023 về phòng trọ của anh T ở tổ dân phố An Tháp, phường Nhân Hòa. Ph thấy anh T sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha biển số đăng ký 19H1-xxxxx (anh T mượn của chị Th) nên Ph nảy sinh ý định đợi anh T sơ hở sẽ trộm cắp chiếc xe này. Khoảng 17 giờ ngày 31/01/2023, anh T đi làm về dắt xe vào phòng trọ, để chìa khóa xe vào túi áo khoác đang mặc và đi liên hoan đến khoảng 23 giờ cùng ngày về phòng, sau đó anh T để chìa khóa xe ở đầu giường rồi nằm ngủ. Đến khoảng 03 giờ ngày 01/02/2023, Ph lấy chìa khóa xe để vào túi áo của mình và nằm xuống giường, thấy anh T vẫn ngủ say thì Ph dậy, đi đến vị trí xe gạt chân chống, dắt lùi ra ngoài hành lang khu trọ, quay lại phòng lấy áo khoác rồi dắt xe ra khỏi cổng, mở khóa điện và điều khiển xe lang thang ở địa bàn tỉnh Bắc Giang. Ngày 02/02/2023 anh T đến Cơ quan điều tra Công an thị xã M trình báo sự việc, chiều ngày 03/02/2023 Ph đến Công an thị xã M, tỉnh Hưng Yên đầu thú khai nhận về hành vi trộm cắp của mình đồng thời giao nộp xe mô tô biển số đăng ký 19H1-xxxxx và chìa khóa của xe.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 72/KL-HĐĐG ngày 06/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản thị xã M, kết luận: Chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave anpha, sơn màu xanh đen bạc, biển số đăng ký 19H1-xxxxx có giá trị 11.500.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu xanh đen bạc, biển số đăng ký 19H1-xxxxx là tài sản hợp pháp của chị Cù Thị Th cho anh T mượn để làm phương tiện đi lại. Anh T đề nghị trả lại xe cho chị Th. Ngày 02/3/2023 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã M đã trả lại cho chị Th chiếc xe mô tô trên. Anh T, chị Th đều không yêu cầu đề nghị gì về trách nhiệm dân sự.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKSMH ngày 28/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đề nghị Hội đồng xét xử: Căn Cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ph 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 03/02/2023.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Trách nhiệm dân sự : Không phải giải quyết.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã M và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã M và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện nên đều hợp pháp.

[2]- Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà phù hợp với biên bản tiếp nhận đầu thú, bản ảnh, thực nghiệm điều tra, vật chứng đã thu giữ, kết luận định giá tài sản; phù hợp khách quan với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; những người làm chứng, cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ, đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 03 giờ ngày 01/02/2023 tại phòng trọ của anh Đinh Văn T ở tổ dân phố A, phường Nh, thị xã M, tỉnh H, Nguyễn Văn Ph đã lợi dụng sơ hở lén lút trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu xanh đen bạc, biển số đăng ký 19H1-xxxxx trị giá 11.500.000 đồng của anh Đinh Văn T sau đó bị phát hiện. Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự là chính xác và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và doanh nghiệp; Gây bất bình và lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo phạm tội độc lập, tội phạm đã hoàn thành. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nên buộc phải nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhưng chỉ vì động cơ, mục đích tư lợi của bản thân muốn chiếm đoạt tài sản của người khác lấy làm của riêng mình mà bị cáo đã phạm tội.

Bị cáo có 01 tiền án tại bản án số 06/2020/HS-ST ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đài Bắc, tỉnh Hòa Bình xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không lấy lần phạm tội trước làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, lại tiếp tục phạm tội cùng loại đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo sớm trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, lấy giáo dục riêng để phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản được thu hồi trả lại cho bị hại và phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bị cáo ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] -Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định, không có tài sản nên hội đồng xét xử sẽ miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] -Về Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu xanh đen bạc, biển số đăng ký 19H1-xxxxx đã được thu hồi trả lại cho anh T, anh T đã trả lại cho chị Th. Anh T, chị Th đều không yêu cầu đề nghị gì nên HĐXX không giải quyết.

[6]- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

* Căn Cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Ph (tên gọi khác T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ph 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 03/02/2023.

* Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Ph phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Mỹ Hào - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về