Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 14/2022/TLST- HS ngày 25 tháng 02 năm 2022, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh L; sinh năm 1993 tại Kiên Giang; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện R, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 4/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 và bà Lý Thị Bé T, sinh năm 1973.

- Tiền án:

+ Ngày 12/3/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 18/2013/HSST, chưa xóa án tích.

+ Ngày 25/7/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù theo bản án số 18/2013/HSST, ngày 12/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Cái Tàu đến ngày 16/02/2016, chưa xóa án tích.

+ Ngày 12/3/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 04 năm tù về tội Cướp tài sản theo bản án số 111/2016/HSST. Chấp hành hình phạt tại Trại giam Kênh 7 đến ngày 13/7/2020 chấp hành xong hình phạt, chưa xóa án tích.

- Tiền sự: Không.

Tuy nhiên: Ngày 20/10/2010, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường Giáo dưỡng 24 tháng. Chấp hành quyết định tại Trường Giáo dưỡng số 5 đến ngày 01/9/2012, chấp hành xong quyết định.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/9/2021, (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Bà Trần Thị B, sinh năm 1969 (Vắng mặt) Trú tại: ấp B, xã A, huyện T, Kiên Giang

Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Mai N, sinh năm 2006 (Có mặt) Trú tại: ấp B, xã A, huyện T, Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thanh L là người đã có tiền án về các tội Trộm cắp tài sản, Vi phạm quy định về điều khiển phương tiệ n giao thông đường bộ và Cướp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/7/2020, chưa được xóa án tích. Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 24/8/2021, L đi bộ đến khu vực chợ Bách Hóa thuộc ấp B, xã A, huyện T để tìm tài sản lấy trộm. Khi đến ki-ốt bán hàng của anh Nguyễn Ngọc H đối diện chợ Bách Hóa, L phát hiện bà Trần Thị L1 đang ngủ trên giường, dưới nền ki -ốt có bà Trần Thị B và em Nguyễn Thị Mai N đang ngủ trong mùng. L quan sát thì nhìn thấy một điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen, model Value 100 có gắn sim số 0372580218 đi kèm để trên thùng xốp bên cạnh mùng nên lén lút tiếp cận lấy trộm điện thoại di động trên và đi về. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, bà B thức dậy và phát hiện điện thoại di động Itel đã bị lấy trộm. Lúc này, em N cũng phát hiện điện thoại Realme C2, loại cảm ứng, màu xanh nhớt cũng đã bị mất trộm nên trình báo công an xã Bình An, huyện Châu Thành. Đến 16 giờ cùng ngày, Công an xã Bình An, huyện Châu Thành phát hiện L có biểu hiện nghi vấn nên mời về làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh L thừa nhận hành vi phạm tội.

Ngoài ra, Nguyễn Thanh L đã thừa nhận vào khoảng 13 giờ ngày 23/8/2021, L đi đến một quán cà phê tên “Nhà Lá” ở ấp An Phước, xã Bình An, huyện Châu Thành. Quan sát thấy quán đóng cửa, không có người trông coi nên đột nhập vào lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động Nokia bàn phím màu đen, đã qua sử dụng trong ngăn tủ.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, ngày 05/9/2021 Nguyễn Thanh L đã đến ấp Bến Nhứt, xã Long Thạnh, huyện Giồng Riềng để trộm cắp tài sản nhưng bị phát hiện. Ngày 10/9/2021, L bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Riềng khởi tố bị can và tạm giam để điều tra . Đến ngày 13/12/2021, Nguyễn Thanh L bị Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Đối với điện thoại di động Nguyễn Thị Mai N khai nhận bị mất trộm vào đêm 23/8/2021 rạng sáng ngày 24/8/2021 nhưng qua quá trình điều tra, bị cáo không thừa nhận hành vi lấy trộm điện thoại trên nên không có căn cứ xử lý.

* Đồ vật, tài liệu thu giữ, tạm giữ, hƣớng xử lý vật chứng gồm:

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Itel, màu đen, model Value 100, loại bàn phím số imei 1: 355149116225406, số imei 2: 355149116225414 , đã qua sử dụng.

- 01 (một) sim số 0372580218, đã qua sử dụng.

Điện thoại và sim số là tài sản của bị hại là bà Trần Thị B bị mất trộm, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành trao trả lại cho người bị hại.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Redmi, màu đen, mặt sau điện thoại bị bể mất một phần gốc dưới, đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, model TA-1034, loại bàn phím, số imei 1: 358989090438195, số imei 2: 358989091438194, đã qua sử dụng.

Đã được nhập kho vật chứng. Đây là các tài sản bị cáo thừa nhận đã lấy trộm quán tên “Nhà Lá” ở ấp An Phước, xã Bình An, huyện Châu Thành. Tuy nhiên, chủ quán đã đóng cửa và đi khỏi địa phương từ tháng 8/2021. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh, truy tìm nhưng vẫn không xác định được chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Tiền Việt Nam 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Là tài sản của bị cáo, không liên quan đến sự việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh L.

* Tại bản Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 34/KL- HĐĐGTS, ngày 27/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang kết luận: “01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Itel, model Value 100, loại bàn phím, số imei 1: 355149116225406, số imei 2: 355149116225414 có giá trị tại thời điểm tháng 8/2021 là 169.300 đồng (Một trăm sáu mươi chín nghìn ba trăm đồng)”.

* Tại bản Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 43/KL- HĐĐGTS, ngày 03/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang kết luận:

+ 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Redmi, màu đen, mặt sau điện thoại bị bể mất một phần gốc dưới đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm tháng 8/2021 là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

+ 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia, màu đen, model TA-1034, loại bàn phím, số imei 1: 358989090438195, số imei 2: 358989091438194, đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm tháng 8/2021 là 170.700 đồng (Một trăm bảy mươi nghìn bảy trăm đồng).

+ 01 (một) sim số 0372580218, đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm tháng 8/2021 là 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng).

Tổng cộng là 470.700 đồng (Bốn trăm bảy mươi nghìn bảy trăm đồng).

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Thị B đã nhận lại điện thoại di động và sim số bị lấy trộm. Bà B không có yêu cầu bị cáo Nguyễn Thanh L bồi thường thiệt hại.

Tại bản cáo trạng số: 16/CT-VKS-CT ngày 18/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L từ 06 đến 09 tháng tù.

Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số: 51/2021/HS-ST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Về biện pháp tư pháp đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Redmi, màu đen, mặt sau điện thoại bị bể mất một phần gốc dưới, đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, model TA-1034, loại bàn phím, số imei 1: 358989090438195, số imei 2: 358989091438194, đã qua sử dụng.

Bị cáo và bị hại không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Bị cáo được nói lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện: Nguyễn Thanh L là người đã có tiền án về các tội Trộm cắp tài sản và Cướp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/7/2020, chưa được xóa án tích. Khoảng 02 giờ ngày 24/8/2021, Lợi lén lút đột nhập vào ki -ốt bán trái cây tại ấp An Bình, xã Bình An, huyện Châu Thành lấy trộm điện thoại di động di động, nhãn hiệu Itel, màu đen, model Value 100, loại bàn phím có gắn sim số 0372580218 của anh bà Trần Thị B. Điện thoại di động và sim số qua định giá có giá trị tại thời điểm bị mất trộm là 269.300 đồng (Hai trăm sáu mươi chín nghìn ba trăm đồng).

Đối chiếu theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự thì “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm …

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”…. Như vậy, hành vi lén lúc lấy tài sản có giá trị 269.300 đồng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” như đã viện dẫn ở trên.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đều nhận thức được việc lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặc dù nhận thức được hậu quả xảy ra thế nhưng chỉ vì chây lười lao động nên khi phát hiện ki-ốt bán trái cây do bà Trần Thị B làm chủ không có cửa khóa bị cáo liền vào lấy trộm điện thoại di động di động, nhãn hiệu Itel để mang đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo không những vi phạm pháp luật mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, vào năm 2013 bị cáo đã 03 lần bị Tòa án xử phạt tù về hành vi “Trộm cắp tài sản” “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” và “Cướp tài sản” tuy đã chấp hành xong nhưng qua đây cần xem xét về nhân thân bị cáo khi lượng hình mới là thỏa đáng.

Ngoài ra, vào ngày 13/12/2021 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xử phạt 24 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số: 51/2021/HS-ST ngày 13/12/2021. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Bộ luật hình sự cần tổng hợp hình phạt của bản án trên đối với bị cáo mới là phù hợp.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét hình phạt khi lượng hình.

[6] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc định tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người bị hại bà Trần Thị B có đơn xin xét xử vắng mặt và trong đơn bà B đã nhận lại tài sản mất trộm và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[8] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Redmi, màu đen, mặt sau điện thoại bị bể mất một phần gốc dưới, đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, model TA-1034, loại bàn phím, số imei 1: 358989090438195, số imei 2: 358989091438194, đã qua sử dụng. Đây là các tài sản bị cáo thừa nhận đã lấy trộm quán tên “Nhà Lá” ở ấp An Phước. Tuy nhiên, chủ quán đã đóng cửa và đi khỏi địa phương từ tháng 8/2021. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh, truy tìm nhưng vẫn không xác định được chủ sở hữu nên HĐXX xử tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước là phù hợp.

[9] Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 06 (Sáu) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số: 51/2021/HS-ST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 05/9/2021.

Về biện pháp tư pháp áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Redmi, màu đen, mặt sau điện thoại bị bể mất một phần gốc dưới, đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, model TA-1034, loại bàn phím, số imei 1: 358989090438195, số imei 2: 358989091438194, đã qua sử dụng.

Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 12/QĐ- VKSCT ngày 18/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Về án phí áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử buộc các bị cáo Nguyễn Thanh L phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về