TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 290/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 29 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 286/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 236/2021/QĐXXST-HS ngày 08/11/2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Hoài V, sinh năm 1989 (tên gọi khác: không); giới tính: Nam; HKTT: Xóm N, xã H, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Phạm Đình Ph, sinh năm 1955 và bà Lã Thị L, sinh năm 1960; Anh, chị, em ruột: có 5 anh chị em, bị cáo là con thứ 4; Vợ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1990 (đã ly hôn); con có một con sinh năm 2015; Danh, chỉ bản số: 603 lập ngày 24/7/2021 tại Công an quận Hà Đông.
Tiền án:
1. Bản án số 117/2015/HSST ngày 12/5/2015 của TAND quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo thử thách 36 tháng, về tội: “Trộm cắp tài sản” (chưa được xóa án tích).
2. Bản án số 159/2016/HSST ngày 05/4/2016 của TAND quận Hoàng Mai, Hà Nội xử phạt 08 tháng tù, về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù của bản án số 117/2015/HSST buộc phải chấp hành hình phạt chung là 26 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 09/10/2017, chưa được xóa án tích.
3. Bản án số 92/2018/HSST ngày 25/6/2018 của TAND quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 27/6/2020, chưa được xóa án tích.
Bị cáo đầu thú và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2021 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người bị hại:
1. Chị Đinh Thị P.A, sinh năm 1990, trú tại: P, Anland2, KĐT D, phường La Khê, quận Hà Đông. Vắng mặt
2. Chị Trần Như Q, sinh năm 1983, trú tại: P, Anland2, KĐT D, phường La Khê, quận Hà Đông. Vắng mặt
3. Chị Lê Thị Huyền Tr, sinh năm 1988, trú tại: P, Anland2, KĐT D, phường La Khê, quận Hà Đông. Vắng mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Phạm Văn Kh, sinh năm 1987; trú tại: trú tại: số X, ngõ Y đường P, xã T, huyện Thanh Trì, Hà Nội (là cán bộ Ban quản lý tòa nhà Anland2). Vắng mặt
2. Chị Phạm Thị Th- SN 1986, trú tại: số X, ngách Y, Đ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội (chị gái của V). Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 07/6/2021, V đi xe máy Wave BKS: 29K4-8155 đến hầm gửi xe B1 Tòa nhà Anland2 KĐT Dương Nội, phường La Khê, quận Hà Đông với mục đích trộm cắp tài sản. Sau khi gửi xe, V đi bộ loanh quanh trong hầm gửi xe để tìm sơ hở của bảo vệ, rồi dắt 03 chiếc xe máy Honda Lead vào góc khuất. Sau đó, V sử dụng tuốc-nơ-vít 2 và 4 cạnh mang sẵn để tháo mặt nạ đầu xe lấy trộm IC (bộ phận điều khiển của xe máy), cụ thể các xe sau:
- Xe Honda Lead BKS: 29L1-143.53 của chị Đinh Thị P.A, sinh năm 1990, trú tại: P, Anland2, KĐT D, phường La Khê, quận Hà Đông.
- Xe Honda Lead BKS: 30Y4-4821 của chị Trần Như Q, sinh năm 1983, trú tại:
P, Anland2, KĐT D, phường La Khê, quận Hà Đông.
- Xe Honda Lead BKS: 29G1-180.36 của chị Lê Thị Huyền Tr, sinh năm 1988, trú tại: P, Anland2, KĐT D, phường La Khê, quận Hà Đông.
Lấy xong, V cất 03 IC trong túi áo đang mặc rồi đi xe về. Sau V đem 03 IC này đến khu vực chùa Vua, phường phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội bán cho một người đàn ông không quen biết được 1.500.000 đồng (bán 500.000 đồng/1 cái). Nhận tiền xong, V đi xe máy về phòng trọ, số tiền bán IC V đã ăn tiêu hết.
Sau khi phát hiện xe máy bị mất IC, chị Đinh Thị P.A, Trần Như Q và Lê Thị Huyền Tr đã báo cho Ban quản lý và bảo vệ tòa nhà Anland2. Ban quản lý và bảo vệ tòa nhà đã bồi thường cho các chị P.A, Q, Tr số tiền là 4.200.000 đồng, không trình báo công an. Ngày 15/7/2021, anh Phạm Văn Kh, sinh năm 1987, trú tại: số 168, ngõ 168 đường Phan Trọng Tuệ, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội (là cán bộ Ban quản lý tòa nhà Anland2) phát hiện đối tượng V đang ở khu vực Mộ Lao- Hà Đông có đặc điểm giống người trong hình ảnh camera ghi lại ở hầm gửi xe B1 khi bị mất trộm IC xe máy ngày 07/6/2021. Anh Khải đã có đơn trình báo Công an phường La Khê, Công an phường La Khê phối hợp với Công an phường Mộ Lao yêu cầu đối tượng Phạm Hoài V về trụ sở để làm rõ. Quá trình đấu tranh, V đã viết đơn đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đồng thời tự giao nộp 01 xe máy Honda Wave màu xanh, BKS 29K4-8155, số khung 0102251, số máy 0102251 cho cơ quan công an. Công an phường La Khê đã bàn giao đối tượng, vật chứng cho Cơ quan CSĐT Công an quận Hà Đông điều tra xử lý.
Ngày 16/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an quận Hà Đông có văn bản yêu cầu định giá tài sản 03 chiếc IC xe máy bị trộm cắp ở trên. Tại biên bản và kết luận định giá số 214/HĐĐGTS ngày 16/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS UBND quận Hà Đông, kết luận:
- 01 IC (bộ phận điều khiển của chiếc xe mô tô) nhãn hiệu Honda Lead, màu đen-bạc, BKS 30Y4-4821, sản xuất năm 2009, đã qua sử dụng, chưa thu được tang vật. Trị giá 600.000 đồng;
- 01 IC (bộ phận điều khiển của chiếc xe mô tô) nhãn hiệu Honda Lead, màu vàng-đen, BKS 29G1-180.36, sản xuất năm 2012, đã qua sử dụng, chưa thu được tang vật. Trị giá 600.000 đồng;
- 01 IC (bộ phận điều khiển của chiếc xe mô tô) nhãn hiệu Honda Lead, màu vàng-đen, BKS 29L1-143.53, sản xuất năm 2011, đã qua sử dụng, chưa thu được tang vật. Trị giá 600.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 285/CT-VKS-HĐ ngày 28 tháng 10 năm 2021, của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố Phạm Hoài V về tội: Trộm cắp tài sản theo “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông duy trì quyền công tố: Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS; điểm b, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/7/2021.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình đã khắc phục bồi thường đẩy đủ cho các bị hai, các bị hại xác nhận đã nhận đầy đủ, không yêu cầu về gì khác nữa. Nên không xem xét.
Về tang vật của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 228 Bộ luật dân sự:
Chiếc xe máy Honda Wave BKS 29K4-8155, số khung 0102251, số máy 0102251 thu giữ vủa Phạm Hoài V: Quá trình điều tra xác định xe đăng ký mang tên Trần Thị Ngọc Nga, sinh năm 1982, trú tại: số 23 Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chị Nga đã bán xe cho một người không quen biết ở quận Hoàng Mai vào khoảng tháng 4/2021; chị gái của V là Phạm Thị Th, sinh năm 1986, trú tại: số 27, ngách 32/117, Đỗ Đức Dục, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội khai mua chiếc xe này của người đàn ông không quen biết tại khu vực Hồ Linh Đàm - Hà Nội cũng vào tháng 4/2021; Ngày 07/6/2021, V mượn và sử dụng xe vào việc phạm tội thì chị Th không được biết. Xe không nằm trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Cơ quan điều tra tiến hành đăng báo công khai tìm chủ sở hữu hợp pháp nhưng chưa có kết quả. Đề nghị tuyên sau một năm kể từ ngày đăng báo, nếu không có kết quả sẽ giao lại xe cho chị Phạm Thị Th tiếp tục quản lý, sử dụng.
Lời nói sau cùng bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị HĐXX xem xét giảm hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an quận Hà Đông, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi hoặc quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về việc vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án: Tại phiên tòa, vắng mặt những người bị hại, đương sự đã được triệu tập hợp lệ. Tuy nhiên các bị hại và đương sự nêu trên đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án, không yêu cầu bồi thường gì khác về dân sự, có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó việc vắng mặt họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định tại các điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 07/6/2021 Phạm Hoài V đi xe máy Honda Wave BKS: 29K4-8155 đến hầm gửi xe B1 Tòa nhà Anland2, KĐT Dương Nội địa phận phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Lợi dụng sơ hở của bảo vệ tòa nhà, V dắt 03 xe máy Honda Lead vào góc khuất và sử dụng tuốc-nơ-vít tháo trộm 03 IC (bộ phận điều khiển xe mô tô) ở xe máy Lead của các chị Đinh Thị P.A, Trần Như Q, Lê Thị Huyền Tr đem bán được 1.500.000 đồng, bị cáo ăn tiêu hết. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt, được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông xác định tổng trị giá 1.800.000 đồng (Một triệu, tám trăm nghìn đồng).
Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án gồm: Đơn xin đầu thú của bị cáo, Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, Biên bản hiện trường, lời khai của người bị hại,… và Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông; Mặc dù giá trị tài sản bị cáo trộm cắp lần này dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp và lừa đảo chiếm đoạt tài sản, xâm phạm quyền sở hữu của người khác, chưa được xóa án tích nên hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo lần này đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất vụ án, hình phạt và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự tại địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo là người đã trưởng thành, có nhận thức và khả năng làm chủ bản thân, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện; Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.
Khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhân thân xấu, đã được cải tạo, giáo dục nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và xét xử đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có đơn xin đầu thú, và tác động gia đình khắc phục bồi thường về dân sự cho các bị hại, các bị hại đều xác nhận đã được bồi thường đầy đủ, không có yêu cầu gì khác, đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo yên tâm cải tạo, phấn đấu trở thành công dân có ích.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo Phạm Hoài V và gia đình đã bồi thường trả cho Ban quản lý và bảo vệ tòa nhà Anland2, KĐT Dương Nội, phường La Khê, quận Hà Đông số tiền 4.200.000 đồng. Ban quản lý và bảo vệ tòa nhà và bị hại là các chị Đinh Thị P.A, Trần Như Q và Lê Thị Huyền Tr không có yêu cầu bồi thường gì và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về vật chứng của vụ án đã bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông: Chiếc xe máy Honda Wave BKS: 29K4-8155, số khung 0102251, số máy 0102251 thu giữ vủa Phạm Hoài V. Quá trình điều tra xác định xe đăng ký mang tên Trần Thị Ngọc Nga, sinh năm 1982, trú tại: số 23 Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chị Nga đã bán xe cho một người không quen biết ở quận Hoàng Mai vào khoảng tháng 4/2021; chị Phạm Thị Th, sinh năm 1986, trú tại: số 27, ngách 32/117, Đỗ Đức Dục, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội (chị gái của V) khai mua chiếc xe này của người đàn ông không quen biết tại khu vực Hồ Linh Đàm- Hà Nội cũng vào tháng 4/2021; xe không nằm trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Ngày 07/6/2021, V mượn và sử dụng xe vào việc phạm tội thì chị Th không được biết. Chị Th có đơn xin lại xe để làm phương tiện đi lại. Tuy nhiên chị Th không có giấy tờ mua bán xe, không xác định được mua bán xe của ai, nên cần áp dụng Điều 228 Bộ luật dân sự, sau một năm kể từ ngày cơ quan điều tra cho đăng báo công khai tìm chủ sở hữu hợp pháp, không có kết quả thì giao chị Th quản lý, sử dụng theo quy định.
- Đối tượng mua 03 IC do Phạm Hoài V trộm cắp ngày 07/6/2021 mà có, V khai không biết là ai, ở đâu, chỉ biết nơi bán ở khu vực chùa Vua, phường phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ngoài lời khai của V không có tài liệu nào chứng minh, nên không có căn cứ điều tra xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 45; 46; 106; 136; 260; 268; 269; 299; 326; 327; 329; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án;
1. Về tội danh:
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Hoài V phạm tội Trộm cắp tài sản.
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Phạm Hoài V 09 (Chín) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam 16/7/2021.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 228 Bộ luật dân sự, sau một năm kể từ ngày cơ quan điều tra cho đăng báo công khai tìm chủ sử hữu hợp pháp, không có kết quả thì giao chị Phạm Thị Th tiếp tục quản lý, sử dụng 01 (một) xe máy Honda Wave BKS: 29K4-8155, số khung 0102251, số máy 0102251.
(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 11 năm 2021 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông và Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông).
4- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5- Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; vắng mặt người bị hại, người liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 290/2021/HS-ST
Số hiệu: | 290/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về