Bản án về tội trộm cắp tài sản số 289/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 289/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 07 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 496/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 281/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn M (Tên gọi khác: không). Giới tính: Nam. Sinh năm: 1997. Nơi cư trú: ấp S 2, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa. Trình độ học vấn: lớp 5/12. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không. Con ông Phạm Văn N, sinh năm 1975 (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1976 (còn sống). Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn nhất, có vợ là Hồ Thị Ngọc A (sinh năm 1997) và có 02 con sinh năm 2012 và 2016. Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giữ ngày 24/5/2021, chuyển tạm giam theo lệnh số 741 ngày 01/6/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Chí N (Tên gọi khác: không). Giới tính: Nam. Sinh ngày: 14/04/2003 (tại Bản kết luận giám định số 0462/ĐT/2021 ngày 01/6/2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đồng Nai xác định độ tuổi của Nguyễn Chí N là 17 tuổi 06 tháng (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 31/5/2021). Nơi thường trú: ấp 3, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Nơi cư trú: khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: lớp 5/12. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không. Con ông Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1972 (còn sống) và bà Lý Thị L, sinh năm 1982 (còn sống). Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 02 và chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ ngày 24-5-2021 theo Lệnh số 119 ngày 24/5/2021 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Biên Hòa; đến ngày 01-6-2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn theo Quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ số 5539/QĐ-VKSBH ngày 01/6/2021 của Viện kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa, được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh Q, sinh năm: 1992. Nơi cư trú: tổ 9, khu phố 4, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Bùi Thị T, sinh năm 1975. Địa chỉ: tổ 15A, khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bà Lê Thị H, sinh năm 1955. Địa chỉ: khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn M và Nguyễn Chí N là những người không có nghề nghiệp và sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 03 giờ ngày 20/5/2021, N và bạn tên Tr (chưa rõ họ, địa chỉ) đến phòng trọ của M tại khu phố 2, phường A, thành phố B rồi cùng nhau sử dụng ma túy đá. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, M rủ N mượn xe mô tô hiệu Sirius (không rõ biển số) của Tr để đi trộm cắp tài sản thì N đồng ý. N điều khiển xe mô tô chở M đi đến khu phố 1, phường A, thành phố B thì cả 02 phát hiện xưởng gia công nội thất “K” tại khu phố 1 của anh Nguyễn Thanh Q làm chủ không có người trông coi nên N dừng xe lại để M đi vào mở cửa cổng rồi đột nhập vào trong xưởng lấy trộm 03 cây cần câu không nhãn hiệu có gắn máy quấn cước câu (01 máy hiệu Yumoshi, 01 máy hiệu Shimano, 01 máy hiệu Mirage), 01 cây cần câu không nhãn hiệu và 01 cây đàn ghi ta hiệu Stafford & CoEST 1957. Khi N chở M mang theo số tài sản trên đi trên đường thì M tiếp tục rủ N quay lại xưởng của anh Q để lấy trộm tài sản nên N và M đã cất giấu số tài sản trên tại 01 quán ven đường (không rõ địa chỉ) rồi N chở M quay lại xưởng của anh Q để M đột nhập vào trong lấy trộm 01 máy cắt hiệu Maktec, 01 máy tubi hiệu Feg, 01 máy khoan hiệu Maktec, 01 máy mài hiệu Bosch. Sau đó, N chở M quay lại nơi cất giấu tài sản trước đó rồi cả hai đem tất cả các tài sản trộm cắp được về cất giấu tại phòng trọ của M. Khoảng 11 giờ ngày 20/5/2021, M nhờ Tr điều khiển xe mô tô chở M mang 01 máy cắt hiệu Maktec, 01 máy tubi hiệu Feg, 01 máy khoan hiệu Maktec, 01 máy mài hiệu Bosch đến tiệm điện cơ ở khu phố 1, phường T, thành phố B của chị Bùi Thị T làm chủ và bán cho chị T được 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Đến ngày 23/5/2021, M đem bán cho bà Lê Thị H (là bà ngoại của M), ngụ tại khu phố 5, phường T, thành phố B 03 chiếc cần câu có gắn máy quấn cước được 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Ngày 23/5/2021, M điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, biển số 60B9- 09731 chở Trần Văn L (sinh năm 2004- là bạn của M) đem cây đàn ghi ta hiệu Stafford & CoEST 1957 đến bán tại tiệm mua bán nhạc cụ ở tổ 6, khu phố 1, phường T, thành phố B của anh Phan Văn K (là bạn của anh Nguyễn Thanh Q) làm chủ thì anh K phát hiện cây đàn trên là của anh K cho anh Q mượn nên anh K đã trình báo Công an phường T đến đưa M và L về làm việc và thông báo cho Công an phường An Bình. Sau đó, Công an phường An Bình đã lập hồ sơ vụ việc và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Phạm Văn M và Nguyễn Chí N về tội “Trộm cắp tài sản” để điều tra, xử lý.

Tại bản kết luận định giá số 248/KL-HĐĐGTS ngày 26/05/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: “04 cây cần câu không nhãn hiệu 01 máy câu hiệu Yumoshi, 01 máy câu hiệu Shimano, 01 máy câu hiệu Mirage, 01 cây đàn ghi ta hiệu Stafford & CoEST 1957, 01 máy cắt hiệu Maktec, 01 máy tubi hiệu Feg, 01 máy khoan hiệu Maktec, 01 máy mài hiệu Bosch có tổng trị giá 4.308.800đ (Bốn triệu ba trăm lẻ tám nghìn tám trăm đồng)”.

Vật chứng của vụ án:

- 03 cây cần câu không nhãn hiệu có gắn máy quấn cước câu (01 máy hiệu Yumoshi, 01 máy hiệu Shimano, 01 máy hiệu Mirage), 01 cây cần câu không nhãn hiệu, 01 cây đàn ghi ta hiệu Stafford & CoEST 1957, 01 máy cắt hiệu Maktec, 01 máy tubi hiệu Feg, 01 máy khoan hiệu Maktec và 01 máy mài hiệu Bosch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho anh Nguyễn Thanh Q.

- 01 xe mô tô hiệu Sirius (không rõ biển số) do Nguyễn Chí N mượn của đối tượng tên Tr (chưa rõ họ, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không thu giữ được.

- 01 xe mô tô hiệu Sirius, biển số 60B9-09731 do Phạm Văn M mượn của Trần Văn L. Qua xác minh xe mô tô trên do Trần Văn L mượn của chị Trần Thị H, ngụ tại ấp 1, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (là chị của L) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị L.

Về dân sự: anh Nguyễn Thanh Q, chị Bùi Thị T và bà Lê Thị H không yêu cầu bồi thường.

Bản cáo trạng số: 506/CT-VKSBH-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Phạm Văn M và Nguyễn Chí N, về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm o khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn M mức án 13 tháng 18 ngày tù; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Chí N từ 07 – 09 tháng tù.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo Phạm Văn M nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Sau khi thụ lý vụ án. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử vào lúc 08 giờ 00 phút, ngày 29 tháng 10 năm 2021, hoãn phiên tòa mở lại vào các ngày 12/11/2021 và ngày 10/12/2021 vì lý do bị cáo Nguyễn Chí N vắng mặt tại phiên tòa, không tống đạt hợp lệ cho bị cáo N.

Tại biên bản xác minh ngày 10/01/2022, Công an phường An Bình, thành phố Biên Hòa xác định bị cáo Nguyễn Chí N không đăng ký tạm trú và không sinh sống tại khu phố 02, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Tại biên bản xác minh ngày 10/03/2022, Công an xã Phong Thạnh Tây A, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, xác định Nguyễn Chí N có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ ấp 3, xã P, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. Hiện nay, Nguyễn Chí N và gia đình không có mặt tại địa phương, bỏ địa phương đi khoảng hơn 01 năm nay, đi đâu, làm gì thì không ai biết.

Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa có văn bản yêu cầu truy nã số 536/2022/YCTN-HS ngày 08/4/2022; Cơ quan điều tra Công an Thành phố Biên Hòa có quyết định truy nã số 46 ngày 10/5/2022; sau 30 ngày, Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa có văn bản số 70100/CSĐT-MT ngày 10/6/2022 xác định việc truy nã không có kết quả (không bắt được bị cáo). Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử (niêm yết hợp lệ cho bị cáo N). Tại phiên tòa, bị cáo N không có mặt, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định pháp luật.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Chí N: Luật sư Trần Hữu N – Văn phòng luật sư Trần Hữu N – Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai có văn bản đề nghị chấm dứt bào chữa cho bị cáo Nguyễn Chí N.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn M đã khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo M phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ như lời khai của bị cáo N, bị hại, lời khai của người làm chứng. Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Chí N đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ như lời khai của bị cáo M, bị hại, lời khai của người làm chứng. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 20/05/2021, Phạm Văn M và Nguyễn Chí N đã thực hiện hành vi trộm cắp của anh Nguyễn Thanh Q 03 cây cần câu không nhãn hiệu có gắn máy quấn cước câu (01 máy hiệu Yumoshi, 01 máy hiệu Shimano, 01 máy hiệu Mirage), 01 cây cần câu không nhãn hiệu, 01 cây đàn ghi ta hiệu Stafford & CoEST 1957, 01 máy cắt hiệu Maktec, 01 máy tubi hiệu Feg, 01 máy khoan hiệu Maktec, 01 máy mài hiệu Bosch có tổng trị giá là 4.308.800đ (Bốn triệu ba trăm lẻ tám nghìn tám trăm đồng) tại xưởng gia công nội thất “K” ở khu phố 1, phường A, thành phố Biên Hòa thì bị khởi tố để điều tra, xử lý.

Như vậy, các bị cáo Phạm Văn M và Nguyễn Chí N đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Thanh Q, giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 4.308.800đ (Bốn triệu ba trăm lẻ tám nghìn tám trăm đồng). Do đó, hành vi của các bị cáo Phạm Văn M và Nguyễn Chí N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố và viện dẫn.

Bị cáo Phạm Văn M là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, nhưng bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, lại lười lao động muốn có tiền tiêu xài nên đã lôi kéo, rủ rê Nguyễn Chí N, cũng là đối tượng nghiện ma túy cùng thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo đã lợi dụng lúc bị hại sơ hở để đột nhập lấy trộm tài sản đem đi tiêu thụ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được Nhà nước bảo vệ, làm mất trật tự xã hội tại địa phương nên cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

- Đây là vụ án đồng phạm giản đơn nhưng các bị cáo giữ vai trò trong vụ án khác nhau:

Phạm Văn M là người khởi xướng, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và rủ rê Nguyễn Chí N cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Nguyễn Chí N là người giúp sức cho Phạm Văn M thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

* Bị cáo Phạm Văn M:

+ Tình tiết tăng nặng: xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

+ Tình tiết giảm nhẹ: bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

* Bị cáo Nguyễn Chí N :

+ Tình tiết tăng nặng: không.

+ Tình tiết giảm nhẹ: bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Phạm Văn M nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo Nguyễn Chí N tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa thành niên. Tuy nhiên, quá trình tại ngoại bỏ trốn gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án nên áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Đối với các vấn đề khác:

- Đối với đối tượng tên Tr do chưa rõ họ, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đang tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

- Đối với Trần Văn L đã cùng Phạm Văn M đem cây đàn ghi ta hiệu Stafford & CoEST 1957 đến bán cho anh Phan Văn K nhưng L không biết là tài sản do Phạm Văn M và Nguyễn Chí N trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không xử lý là phù hợp.

- Đối với chị Bùi Thị T đã mua 01 máy cắt hiệu Maktec, 01 máy tubi hiệu Feg, 01 máy khoan hiệu Maktec, 01 máy mài hiệu Bosch nhưng không biết là tài sản do Phạm Văn Mvà Nguyễn Chí N phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không xử lý là phù hợp.

- Đối với bà Lê Thị H (là bà ngoại của M) đã mua 03 chiếc cần câu có gắn máy quấn cước nhưng không biết là tài sản do Phạm Văn M và Nguyễn Chí N phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không xử lý là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: anh Nguyễn Thanh Q, chị Bùi Thị T và bà Lê Thị H không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Kiến nghị.

Kiến nghị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc điều tra xử lý theo đúng quy định về hành vi Phạm Văn M kết hôn với chị Hồ Thị Ngọc A (có con sinh năm 2012 khi chị A chưa đủ 16 tuổi) có dấu hiệu của tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” đối với Phạm Văn M.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn M và Nguyễn Chí N phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52, Điều 58, Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): xử phạt Phạm Văn M 01 (một) năm 01 (một) tháng 18 (mười tám) ngày tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ 24-5-2021.

Trả tự do tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58, Khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): xử phạt Nguyễn Chí N 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 24-5-2021 đến ngày 01-6- 2021.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Văn M và Nguyễn Chí N mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Phạm Văn M, bà Lê Thị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị cáo Nguyễn Chí N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Bị hại anh Nguyễn Thanh Q, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

4. Kiến nghị:

Kiến nghị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc điều tra xử lý theo quy định về hành vi Phạm Văn M kết hôn với chị Hồ Thị Ngọc A (sinh năm 1997 và có con sinh năm 2012 khi chị A chưa đủ 16 tuổi) có dấu hiệu của tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” đối với Phạm Văn M.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 289/2022/HS-ST

Số hiệu:289/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về