Bản án về tội trộm cắp tài sản số 288/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 288/2020/HSST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 292/2020/TLST- HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 313/2020/QĐXXST- HS ngày 05/11/2020 đối với bị cáo:

Vũ N, sinh ngày 18/11/2001,tại Bắc Ninh;Nơi ĐKHKTT: thôn N1, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Ninh; chỗ ở: lang thang không nơi ở cố định; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ L và bà Vũ Thị M; TATS: Không; Danh bản, chỉ bản số 503 ngày 26/9/2020 tại Công an quận Cầu Giấy.Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2020. Hiện bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bị hại: Anh Nguyễn Thành T – Sinh năm: 2001 Trú tại: số 169 đường N, phường T1, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02h15’ ngày 10/8/2020, Vũ N đi xe ôm từ hồ Hoàn Kiếm đến khu vực phường Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến đầu đường Nguyễn Chí Thanh- Láng, Nam xuống xe ôm đi bộ vào khu ký túc xá của trường Cao đẳng nghề nghiệp vụ Hà Nội, địa chỉ số 167 Nguyễn Ngọc Vũ, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội thấy có nhiều xe máy để ở sân và không có ai trông giữ. N đi đến gần từng xe dùng tay lắc tay lái các xe kiểm tra xe nào không khóa cổ, khóa càng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Khi đến cuối dãy xe, Nam thấy 01 chiếc xe máy hiệu Honda Wave, mầu cam đen bạc, biển kiểm soát: 35N- 409.42 của anh Nguyễn Thành T, sinh năm 2001, HKTT: Y, N, Ninh Bình, không khóa cổ, khóa càng. N liền dắt chiếc xe này ra đầu ngõ 167 Nguyễn Ngọc Vũ và đi về hướng ngã tư Nguyễn Ngọc Vũ- Lê Văn Lương. Khi đến ngã tư Nguyễn Ngọc Vũ- Lê Văn Lương thì bị Tổ công tác công an phường Trung Hòa phát hiện, kiểm tra hành chính, sau đó đưa N cùng tang vật là chiếc xe máy về trụ sở công an phường giải quyết. Ngoài ra, cơ quan công an còn thu giữ của Vũ N: 01 tuốc vít dài khoảng 25cm bằng kim loại có cán nhựa dài khoảng 12cm.

Tại cơ quan điều tra, Vũ N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên. Lời khai của Nam phù hợp với các tại liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kết luận định giá tài sản số 328 ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cầu Giấy xác định: 01 chiếc xe máy hiệu Honda Wave màu cam đen bạc, biển kiểm soát: 35N1- 409.42 có giá trị là 18.900.000 đồng.

Chiếc xe máy hiệu Honda Wave màu cam đen bạc, biển kiểm soát: 35N1- 409.42, có số khung: 407743, số máy: 1277146, qua xác minh tại Phòng cảnh sát giao thông- PC08 CA TP Hà Nội thì chủ sở hữu đăng ký mang tên Nguyễn Thành T, sinh năm 2001, địa chỉ: Xã Y, N, Ninh Bình. Xác minh tại Phòng cảnh sát tội phạm về TTXH- PC02 CA TP Hà Nội xác định số khung số máy chiếc xe trên là số nguyên thủy và không có trong hệ thống dữ liệu xe máy vật chứng. Anh Nguyễn Thành T khai: Ngày 9/8/2020, anh T điều khiển xe máy trên trở về khu ký túc xá trường Cao đẳng nghề kỹ thuật và nghiệp vụ Hà Nội, ngõ 169 Nguyễn Ngọc Vũ, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội để ở trọ. Khi dựng xe ở sân khu ký túc xá, anh Thông không khóa cổ, khóa càng xe. Đến khoảng 6h ngày 10/8/2020, anh T ra lấy xe thì phát hiện đã bị mất nên đã lên công an phường Trung Hòa trình báo. Ngày 07/10/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an quận Cầu Giấy đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy trên cho anh Nguyễn Thành T. Anh T đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì.

Chiếc tuốc vít thu giữ của Vũ N, quá trình điều tra N khai dùng làm phương tiện trộm cắp tài sản.

Tại Cơ quan điều tra, Vũ N khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của anh T như nội dung nêu trên. Lời khai của N phù hợp với lời khai người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ.

Về dân sự: Anh Nguyễn Thành T đã nhận lại tài sản bị mất nên không yêu cầu bị cáo N phải bồi thường về dân sự.

Cáo trạng số 299/CT - VKSCG ngày23/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố Vũ N về tội “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện VKS nhân dân quận Cầu Giấy giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị áp dụngkhoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51,Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Vũ N,xử phạt bị cáonam mức án từ 16 tháng tù đến 22 tháng tù.

Về tang vật: 01 tuốc vít dài 25 cm, 01 cán nhựa dài 12 cm là công cụ phạm tội của N nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên toà: Bị cáo khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi do mình thực hiện là phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáoVũ N trình bày lời nói sau cùng: bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã ăn năn hối hận và mong muốn được sự khoan hồng để có điều kiện cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận định giá, lời khai người liên quan cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 02h15’ 10/8/8/2020, Vũ N đã có hành vi trộm cắp 01 xe máy hiệu Honda Wave màu cam đen bạc, biển kiểm soát: 35N1- 409.42 của anh Nguyễn Thành T tạikhu ký túc xá của trường Cao đẳng nghề nghiệp vụ Hà Nội, địa chỉ số 167 Nguyễn Ngọc Vũ, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội. Trị giá tài sản chiếm đoạt là 18.900.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo N đã xâm phạm đến khách thể là quyền tài sản của người khác, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tạikhoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Nhận xét về nhân thân và lượng hình đối với bị cáo: Tính chất hành vi phạm tội thể hiện: bị cáo là một thanh niên đã trưởng thành,có hiểu biết về pháp luật, biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song do tham lam tư lợi không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân nên bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản như đã nêu trênnên Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để đảm bảo sức răn đe phòng ngừa tội phạm và giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, đồng thời bị cáo chưa có tiền án tiền sự, lần phạm tội này là lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về tang vật: Tịch thu tiêu hủy 01 tuốc vít dài 25 cm, 01 cán nhựa dài 12 cm là công cụ phạm tội của N.

[5] Về dân sự: Không [6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ N phạm tội Trộm cắp tài sản.

-Áp dụngkhoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm i, skhoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vũ N 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/8/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tuốc vít dài 25 cm, 01 cán nhựa dài 12 cm.

3. Về dân sự: Không

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vũ N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 288/2020/HSST

Số hiệu:288/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về