Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 28/2024/HS-ST NGÀY 19/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 18/2024/HSST-TL ngày 02/02/2024 đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Đình V. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1988, tại: H. HKTT: Xã A, huyện N, tỉnh D. Chỗ ở hiện nay: Không ổn định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: lớp 11/12. Nghề nghiệp: Không. Họ tên bố: Nguyễn Đình K, sinh năm: 1958. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm: 1960. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai. Theo danh chỉ bản số: 718 lập ngày: 05/11/2023, tại Công an quận B, H bị cáo có:

Nhân thân:

- Năm 2007, 2009, 2017 có các tiền sự về hành vi chế tạo, tàng trữ vật liệu nổ, trộm cắp tài sản, đánh bạc, đã hết thời hiệu.

- Bản án số 41 ngày 20/10/2008 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, D xử 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, giá trị tài sản trộm cắp là 1.110.000 đồng. Nộp án phí ngày 13/3/2009. Ra trại ngày 10/9/2009. Án tích đã được xóa.

Tiền án, tiền sự: 03 tiền án :

- Bản án số 03 ngày 02/02/2010 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, D xử 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, 18 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, tổng hợp hình phạt là 25 tháng. Nộp án phí ngày 14/7/2010. Ra trại ngày 30/8/2010. Án tích chưa được xóa.

- Bản án số 167 ngày 19/10/2011 của Tòa án nhân dân thành phố D, D xử 07 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản. Ra trại ngày 05/3/2017. Án tích chưa được xóa.

- Bản án số 40 ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, D xử 05 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nộp án phí ngày 13/5/2019. Ra trại ngày 19/01/2023. Án tích chưa được xóa.

Lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 29/10/2023, tạm giam từ ngày 04/11/2023 đến nay tại Trại tạm giam số 02 Công an Thành phố H.

*Các bị hại đã nhận tài sản (Vắng mặt tại phiên tòa) :

+ Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1991, trú tại: 20/100/12 phó S, phường S, quận B, H.

+ Chị Trần Thị H, sinh năm 1990, trú tại: số 36, tổ 18 ngõ 100 S, quận B, H.

+ Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1982, trú tại: số 36 S, quận B, H.

*Người có quyền lợi liên quan: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1998, trú tại : 95 S, B, H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22h30’ ngày 28/10/2023, Công an phường Sài Đồng, quận B nhận được trình báo của anh Nguyễn Văn K (SN: 1991, HKTT: Xã Ngã Thiện, Nga Sơn, T) về việc bị trộm cắp 02 chiếc điện thoại vào ngày 27/10/2023 tại phòng trọ ở tổ 18, phường Sài Đồng, Q. B, TP H.

Ngày 29/10/2023, Nguyễn Đình V (Sinh năm 1988; trú tại: Xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh D) đến Công an phường Sài Đồng đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản tại các khu vực phòng trọ ở phường Sài Đồng, Q.

B, TP H.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Đình V: 01 điện thoại Samsung Galaxy J4 màu gold, 01 áo phông cộc tay màu đen có nhiều họa tiết, 01 quần sooc màu bã trầu, 01 điện thoại thương hiệu OPPO A76 màu xanh đã qua sử dụng; 01 điện thoại thương hiệu OPPO Reno 8 màu vàng đã qua sử dụng; 01 điện thoại thương hiệu Huawei màu vàng đồng, gãy nút bấm, vỡ nắp lưng, đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đình V khai nhận : Nguyễn Đình V không có nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài nên V đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại các phòng trọ khu vực phường Sài Đồng. V đã thực hiện 03 vụ trộm tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 17 giờ 00 ngày 20/10/2023, Nguyễn Đình V đi bộ đến ngõ 100 đường Sài Đồng, phường Sài Đồng, Q. B, TP. H để tìm tài sản trộm cắp. Tại số nhà 36, ngõ 100, phố Sài Đồng, V phát hiện có một phòng trọ mở cửa, trong phòng có anh Nguyễn Văn Q (sinh: 1982, HKTT: Châu Hội, Quỳ Châu, Nghệ An) đang ở trong nhà vệ sinh. V đã lẻn vào trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu vàng đang để trên giường. Sau đó đến ngày 27/10/2023, V mang chiếc điện thoại trên bán cho anh Nguyễn Văn Đ (Sn: 1998, HKTT: Thọ Lâm, Thọ Xuân, T) tại cửa hàng điện thoại số 95 phố Sài Đồng, phường Sài Đồng, Q. B, TP H với giá 400.000 đồng ( Bốn trăm nghìn đồng). Sau khi mua điện thoại, Nguyễn Văn Đ đã cài đặt lại dữ liệu máy, đổi vỏ máy sang màu xám rồi đem ra bày bán. Hiện cơ quan công an đã thu giữ của Đạt chiếc điện thoại trên.

Ngày 30/10/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B đã kết luận: 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu vàng, có số IMEI:

355432074520269 đã qua sử dụng trị giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

Vụ thứ 2: Khoảng 01 giờ 00 ngày 27/10/2023, V đi bộ một mình đến khu vực dãy phòng trọ số 20, ngõ 100/12 đường Sài Đồng, phường Sài Đồng, Q. B, TP H thì phát hiện tại phòng số 2 bên trái dãy nhà trọ không khóa, đèn vẫn sáng và có người đang ngủ. V lẻn vào trong phát hiện anh Nguyễn Văn K đang ngủ trên giường, trên sàn nhà có 01 điện thoại Oppo Reno màu vàng cam và 01 điện thoại Huawei màu vàng đang sạc pin. V lấy trộm 02 chiếc điện thoại trên bỏ vào túi quần. Sau khi trộm cắp được tài sản, V đi về phòng trọ của mình để ngủ. Ngay ngày hôm sau, V mang 02 chiếc điện thoại trên đi bán nhưng không có cửa hàng nào mua nên V đem về giấu trong phòng. Sau khi đầu thú, V đã giao nộp 02 chiếc điện thoại trên cho Cơ quan công an.

Ngày 30/10/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B đã kết luận: 01 điện thoại thương hiệu OPPO 8 màu cam, có số IMEI:

863126062856736 đã qua sử dụng trị giá 9.000.000đ (Chín triệu đồng); 01 điện thoại thương hiệu Huawei màu vàng, số IMEI: 862656038567612 đã qua sử dụng trị giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Tổng tài sản V chiếm đoạt là: 9.300.000 đ (Chín triệu ba trăm nghìn đồng).

Vụ thứ 3: Khoảng 01 giờ 00 ngày 29/10/2023, V tiếp tục đi bộ đến ngõ 100 Sài Đồng, phường Sài Đồng, Q. B, TP H để trộm cắp tài sản. Tại số nhà 36, ngõ 100, phố Sài Đồng, V phát hiện có một phòng trọ không khóa cửa và đèn ngủ bên trong vẫn sáng. V lẻn vào phát hiện chị Trần Thị H (Sn: 1990, HKTT: Châu Hội, Q Châu, Nghệ An) đang ngủ, trên giường có 01 chiếc điện thoại hiệu Oppo A76 màu xanh. V lấy trộm chiếc điện thoại trên rồi bỏ đi. Ngày hôm sau, V mang chiếc điện thoại Oppo Neno màu vàng ( Tài sản trộm cắp ở vụ thứ 2) và điện thoại hiệu Oppo A76 màu xanh đến bán tại số 42 đường Sài Đồng, phường Sài Đồng, B, H để lấy tiền chi tiêu cá nhân. Vì chủ cửa hàng đề nghị trả giá rẻ nên V không bán mà về phòng cất giấu. Do lo sợ bị cơ quan công an phát hiện nên Nguyễn Đình V đã đến Công an phường Sài Đồng xin được đầu thú, giao nộp điện thoại OPPO A76 màu xanh và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp nêu trên để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Ngày 30/10/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B đã kết luận giá trị tài sản bị chiếm đoạt như sau: 01 điện thoại thương hiệu OPPO A76 màu xanh đã qua sử dụng trị giá 3.000.000 đồng.

Tổng giá trị các tài sản bị can chiếm đoạt là 12.700.000 đồng (Mười hai triệu bảy trăm nghìn đồng) Quá trình điều tra anh Nguyễn Văn Q, chị Trần Thị H đã đến cơ quan công an trình báo về việc bị mất trộm tài sản và đề nghị xử lý đối tượng đúng quy định pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Văn Q. Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO Nepo 8 màu cam đã qua sử dụng và chiếc điện thoại nhãn hiệu Huawei màu vàng đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Văn K. Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A76 màu xanh đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị H. Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả số điện thoại trên cho các bị hại. Sau khi nhận lại tài sản anh Q, anh Khải, chị H không yêu cầu bồi thường thêm gì về dân sự và đề nghị xử lý bị can theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Nguyễn Văn Đ có hành vi mua chiếc điện thoại Iphone 6 từ bị can V, tuy nhiên anh không biết nguồn gốc chiếc điện thoại trên là tài sản do V trộm cắp mà có. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Đối với số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) anh Đạt trả cho bị can V để mua chiếc điện thoại Iphone 6, anh Nguyễn Văn Đ không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 01 điện thoại Samsung Galaxy J4 màu gold là tài sản của bị can không sử dụng vào việc phạm tội. Đối với 01 áo phông cộc tay màu đen có nhiều họa tiết và 01 quần sooc màu bã trầu bị can mặc trên người khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Chuyển Tòa án nhân dân quận B giải quyết.

Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKSLB ngày 02/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận B truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đình V về tội Trộm cắp tài sản theo Điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích đánh giá nội dung vụ án, hành vi và mức độ tính chất của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với:

Bị cáo Nguyễn Đình V: Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự về tội trộm cắp tài sản và áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản1, khoản 2 điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự và đề nghị xử phạt mức án từ: 30(ba mươi)tháng đến: 36(ba sáu)tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày:

29/10/2023. Không phạt tiền vì bị cáo không nghề ổn định; Tang vật là tài sản của bị cáo gồm 01 điện thoại di động trả lại bị cáo, 01 chiếc quần, 01 chiếc áo cho tịch thu, tiêu hủy, đã có biên bản thu giữ, truy thu số tiền 400.000đ là thu lời bất chính, xung quỹ nhà nước.

Về trách nhiệ m dân sự Trong vụ án này: Tài sản thu giữ là 04 chiếc điện thoại đã thu hồi và trao trả cho các bị hại, bị hại nhận và không có yêu cầu gì, nên không xét. Bị cáo Nguyễn Đình V phải nộp án phí theo quy định, bị cáo và bị hại, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn quy định của pháp luật.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo cũng như bị hại, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Đình V đã có những lời khai, xét lời khai tại phiên tòa phù hợp với các lời khai đã có trong hồ sơ, lời khai của bị cáo tại phiên tòa khai nhận nội dung vụ án thành khẩn và phù hợp với lời khai bị hại, người liên quan đã nhận mua điện thoại về đặc điểm tài sản và nhận dạng bị cáo, do bị cáo Nguyễn Đình V không có công việc ổn định, từ việc không có thu nhập và lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của các bị hại, bị cáo đã quan sát và lợi dụng các bị hại hé cửa, bật đèn khi đi ngủ do phòng trọ chật hẹp. Bằng thủ đoạn này bị cáo đã lần lượt thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản trong các ngày 20, ngày 27 và 29 của tháng 10 năm 2023, tài sản là 04 chiếc điện thoại di động các loại, tổng giá trị của 04 chiếc điện thoại đã được hội đồng định giá tố tụng hình sự kết luận tài sản bị cáo chiếm đoạt là 12.700.000 đồng (Mười hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Như vậy bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, bị cáo phạm tội nhiều lần, nhân thân bị cáo là xấu, ngày 19/01/2023 bị cáo V vừa chấp hành xong hình phạt chính của bản án 05 năm 03 tháng tù theo bản án số: 40/2028/HSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh D, tại bản án này bị cáo được nhận định nhân thân có nhiều tiền án, tiền sự và xác định là tái phạm nguy hiểm, ngày 20/10/2023 bị cáo lại phạm tội. Như vậy lần này bị cáo bị truy tố xét xử theo tình tiết phạm tội định khung tại điểm g của khoản 2 Điều 173 BLHS với tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Hành vi này của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn và đặc biệt bị cáo là người đã được giáo dục nhiều lần, không chịu lao động.

Tuy nhiên cũng xem xét thái độ bị cáo khai báo thành khẩn là tình tiết để giảm nhẹ một phần hình phạt, các bị hại cũng đã nhận tài sản đầy đủ không yêu cầu về dân sự. Các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự trong vụ án này, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại nhận lại, không có yêu cầu gì. Người liên quan không có đề nghị gì.

+ Hình phạt bổ sung là phạt tiền: Không áp dụng đối với bị cáo vì bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định. Các đồ vật là tài sản của bị cáo như điện thoại và quần áo của cá nhân bị cáo không liên quan hành vi phạm tội, đã thu giữ có biên bản trao trả lại cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Đình V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo, bị hại, người liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định Pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ : Điểm g Khoản 2 điều 173, Điều 38, Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g(phạm tội từ 02 lần trở lên) Khoản 1 Điều 52, Điều 47 Bộ luật Hình sự;

1/ Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Đình V phạm tội: “ Trộm cắp tài sản”.

2/ Xử phạt bị cáo: Nguyễn Đình V: 28(hai tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày: 29/10/2023.

Căn cứ: Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 quy định mức án phí, lệ phí.

+ Xử lý tang vật: Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/02/2024 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận B, H gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4 có đặc điểm: đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, màu Gold; 01 chiếc áo phông màu đen có nhiều họa tiết đã qua sử dụng, 01 chiếc quần sooc màu bã trầu đã qua sử dụng, trả lại các vật dụng và điện thoại này cho bị cáo.

+ Án phí và Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Đình V phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Truy thu số tiền 400.000đ là tiền thu lời bất chính để sung quỹ nhà nước. Bị cáo có hạn kháng cáo hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Các bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày từ ngày nhận bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi liên quan vắng mặt tại phiên tòa có hạn 15 ngày kháng cáo về những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình trong bản án, tính từ ngày nhận bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2024/HS-ST

Số hiệu:28/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về