TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 07/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 09 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 07 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 08 năm 2023 đối với bị cáo:
* Trần Phúc Q (Tên gọi khác: D); sinh năm 1987, tại huyện D, tỉnh Phú Yên; Nơi cư trú: Thôn L, xã X, huyện D, tỉnh Phú Yên. Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông: Trần Phúc T, sinh năm 1961 và bà: Hồ Thị S, sinh năm 1961.
Tiền án:
- Ngày 17/6/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa chấp hành án phí hình sự sơ thẩm);
- Ngày 08/7/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã S xét xử tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa chấp hành phần bồi thường dân sự);
- Ngày 09/12/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa chấp hành phần bồi thường dân sự).
Tiền sự: Không; Nhân thân:
- Ngày 18/6/2004, bị Toàn án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản;
- Ngày 06/5/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 09 tháng tù về tội Chống người thi hành công vụ;
- Ngày 23/8/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 02 năm về tội Trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 28/3/2023 đến ngày 24/7/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện D, có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Ngô Tấn H – Luật sư, do trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên cử, có mặt.
* Nguyên đơn dân sự:
- Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn B, xã A, huyện D, tỉnh Phú Yên, vắng mặt.
- Bà Hồ Như C, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn X, xã P, huyện D, tỉnh Phú Yên, vắng mặt.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Phạm Thị Minh V, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn H, xã M, huyện T, tỉnh Phú Yên.
- Nguyễn Thị Thu N, sinh năm 1978; nơi cư trú: Số 45/2 G, phường P, thị xã K, tỉnh Bình Định.
- Hồ Phi E, sinh năm 1973; nơi cư trú: Khu phố L, thị trấn M, huyện D, tỉnh Phú Yên.
- Trần Phúc T, sinh năm 1961; nơi cư trú: Thôn L, xã X, huyện D, tỉnh Phú Yên.
Tất cả đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có tiền tiêu xài nên khoảng 09 giờ ngày 19/3/2023, Trần Phúc Q điều khiển xe mô tô biển số 78K1-xxx.xx đi tìm các ngôi chùa vắng người để trộm cắp tài sản. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Q đến và dựng xe trước cổng chùa B thuộc thôn B, xã A, huyện D, quan sát và thấy không có người trông coi chùa nên Q đi vào khu chánh điện lấy 02 cái chuông đồng, cởi áo khoác trùm kín và đi ra xe mô tô tẩu thoát. Sau khi trộm cắp được tài sản, Q điều khiển xe mô tô chở 02 cái chuông đồng đến tiệm thu mua phế liệu của chị Phạm Thị Minh V – Sinh năm 1982 tại thôn H, xã M, huyện T, tỉnh Phú Yên bán được 1.530.000 đồng. Đến ngày 22/3/2023, chị V bán lại 02 cái chuông đồng cho chị Nguyễn Thị Thu N – Sinh năm 1978 trú 45/02 G, phường P, thị xã K, tỉnh Bình Định với số tiền 1.734.000 đồng.
Kết quả điều tra còn xác định: Khoảng 10 giờ ngày 21/02/2023, Trần Phúc Q điều khiển xe mô tô của mình biển số 78N1-yyyy đến Chùa Từ T thuộc thôn X, xã P, huyện D lấy trộm 01 hòm công đức, sau đó đem đến đám mía thuộc thôn Y, xã P cậy khóa lấy toàn bộ số tiền bên trong là 1.500.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản tài sản số 07/KL-ĐGTTHS ngày 20/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện D, kết luận: giá trị tài sản bị thiệt hại (02 cái chuông đồng) theo yêu cầu định giá tài sản số 08 ngày 19/3/2023 của Cơ quan điều tra Công an huyện D là 25.000.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản tài sản số 12/KL-ĐGTTHS ngày 19/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện D, kết luận: giá trị tài sản bị thiệt hại (01 hòm công đức) theo yêu cầu định giá tài sản số 01 ngày 14/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D là 400.000 đồng.
Vật chứng vụ án: (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/08/2023 của cơ quan CSĐT công an huyện D và Chi cục Thi hành án dân sự huyện D).
Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKSĐX ngày 21/07/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Phú Yên truy tố bị cáo Trần Phúc Q về tội: "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.
Kiểm sát V luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Kết luận bị cáo Trần Phúc Q phạm tội: "Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáoTrần Phúc Q phạm tội: Trộm cắp tài sản; Xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/3/2023.
Hình phạt bổ sung: không.
* Về vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS, đề nghị:
- Tịch thu sung quỹ nhà nước:
+ 01 (một) mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX, biển số 78K1-xxx.xx, màu sơn đen đỏ xám bạc, số máy JC52E508XXX;
- Trả cho Trần Phúc Q:
+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J4, màu đen;
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) quần dài vải Jeans màu xanh dương, mặt trong lưng quần có dòng chữ “AIRMAXNIKE”, chiều dài ống quần là 97cm;
+ 01 (một) áo khoác vải dài tay màu xanh dương, khoá kéo dạng phéc - me - tuya; mặt trước có sọc xám, trắng ngang ngực, in dòng chữ “STRONGER” “UNSTOPARLE” màu đen; mặt trên tay áo bên trái có dòng chữ “YOU HRE”, chiều dài lưng áo là 70cm, chiều dài tay áo là 65cm;
+ 01 (một) áo thun ngắn tay có cổ, màu xanh dương, trên ngực trái áo có dòng chữ “GUCI” từ cổ áo đến ống tay áo hai bên có sọc màu trắng ở phía trên, chiều dài lưng áo là 64cm;
+ 01 (một) khẩu trang y tế dạng hình chữ nhật, mặt ngoài màu xanh dương, phía trên có dòng chữ “DCK”, kích thước (17,5 x 09)cm;
+ 01 (một) khẩu trang y tế dạng hình chữ nhật, mặt ngoài màu xanh dương, phía trên có dòng chữ “QUOC PHUC NHAN”, kích thước (17,5 x 09)cm;
+ 01 (một) bao tay vải có sọc ngang màu xanh rêu, trắng, cổ bao tay có viền đỏ, kích thước (22,3 x 18,5)cm;
+ 01 (một) tua vít mũi dẹp có chiều dài 12cm, cán bằng nhựa màu tím trong suốt dài 4,9cm, đường kính ngoài 1,6cm; phần mũi kim loại dài 7,1cm; đường kính 0,3cm;
+ 01 (một) cờ lê bằng kim loại màu bạc, trên có dòng chữ “17”, “YETI USA Standard”, có chiều dài 21,8cm;
+ 01 (một) mỏ lết bằng kim loại màu bạc, trên có dòng chữ “8” “FUKUNG” có chiều dài 20,3cm;
+ 01 (một) đôi dép lê dạng xỏ ngón có một vai màu đen, trên đế có dòng chữ “DUWA”, chiều dài 28cm, mặt trên vai dép có một số mảng hoạ tiết màu trắng, cỡ số 41;
+ 01 (một) mũ bảo hiểm dạng lưỡi trai màu xanh đậm, không có nhãn hiệu, mặt phía trên bên trái có hoạ tiết nhân vật Pikachu màu vàng và một số hoạ tiết khác màu trắng nâu, xanh lá có kích thước (27 x 18,5 x 13)cm;
+ 01 (một) mũ lưỡi trai vải Jeans, màu xanh dương, phía trước mũ có dòng chữ “TOMMY JEANS”, kích thước (27 x 16 x 12)cm.
- Đưa vào hồ sơ vụ án 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô, xe máy số A0001353XXX, biển số 78K1-xxx.xx, mang tên Nguyễn Thị X, địa chỉ M, D.
* Về trách nhiệm dân sự:
Ông Nguyễn Minh H - Chủ trì Chùa B và bà Hồ Như C - Chủ trì chùa Từ T không yêu cầu Trần Phúc Q bồi thường, khắc phục gì. Chị Phạm Thị Minh V yêu cầu Trần Phúc Q bồi thường số tiền 1.530.000 đồng. Trần Phúc Q đã tác động gia đình bồi thường 1.500.000 đồng, buộc bị cáo phải bồi thường cho chị V số tiền 30.000 đồng. Chị V được nhận lại số tiền 1.500.000 đồng tại Chi cục thi hành án huyện D.
* Về án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí HSST và án phí DSST.
* Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát và phần đề nghị của kiểm sát V tại phiên tòa. Tuy nhiên bị cáo thuộc hộ cận nghèo, không có nghề nghiệp ổn định, nên đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất mà kiểm sát V đề nghị.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, Bị cáo nói lời sau cùng: Xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra V, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát V trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Phúc Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm phạm tội và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 19/3/2023, Trần Phúc Q (có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích) đã có hành vi lấy 02 cái chuông đồng của Chùa B thuộc thôn B, xã A, huyện D trị giá 25.000.000 đồng.
Trước đó vào khoảng 10 giờ ngày 21/02/2023, Trần Phúc Q đã lấy trộm hòm công đức bên trong có 1.500.000 đồng của Chùa Từ T thuộc thôn X, xã P, huyện D.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Do lười biếng lao động, coi thường pháp luật, bị cáo đã thực hiện hành vi lấy trộm 02 quả chuông đồng của chùa B và một hòm công đức, bên trong có số tiền 1.500.000đ của Chùa Từ T để tiêu sài cá nhân. Hành vi nêu trên của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân ở địa phương. Bị cáo có 03 tiền án và có nhân thân xấu( Có cùng tính chất):
- Ngày 17/6/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa chấp hành án phí hình sự sơ thẩm);
- Ngày 08/7/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã S xét xử tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa chấp hành phần bồi thường dân sự);
- Ngày 09/12/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa chấp hành phần bồi thường dân sự).
Nhân thân:
- Ngày 18/6/2004, bị Toàn án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản;
- Ngày 06/5/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 09 tháng tù về tội Chống người thi hành công vụ;
- Ngày 23/8/2011, bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử tuyên phạt 02 năm về tội Trộm cắp tài sản.
Bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân, không tự cải tạo để trở thành người công dân tốt cho xã hội, mà còn tiếp tục phạm tội nhiều lần. Vì vậy áp dụng điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt nghiêm đối với bị cáo, và cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, tác động gia đình khắc phục bồi thường 1.500.000đ.
Xét đề nghị của kiểm sát V và lời bào chữa của luật sư tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
Vì vậy áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ phần nào trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo tốt.
[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước:
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX, biển số 78K1-xxx.xx, màu sơn đen đỏ xám bạc, số máy JC52E508XXX;
- Trả cho Trần Phúc Q:
+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J4, màu đen;
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) quần dài vải Jeans màu xanh dương, mặt trong lưng quần có dòng chữ “AIRMAXNIKE”, chiều dài ống quần là 97cm;
+ 01 (một) áo khoác vải dài tay màu xanh dương, khoá kéo dạng phéc - me - tuya; mặt trước có sọc xám, trắng ngang ngực, in dòng chữ “STRONGER” “UNSTOPARLE” màu đen; mặt trên tay áo bên trái có dòng chữ “YOU HRE”, chiều dài lưng áo là 70cm, chiều dài tay áo là 65cm;
+ 01 (một) áo thun ngắn tay có cổ, màu xanh dương, trên ngực trái áo có dòng chữ “GUCI” từ cổ áo đến ống tay áo hai bên có sọc màu trắng ở phía trên, chiều dài lưng áo là 64cm;
+ 01 (một) khẩu trang y tế dạng hình chữ nhật, mặt ngoài màu xanh dương, phía trên có dòng chữ “DCK”, kích thước (17,5 x 09)cm;
+ 01 (một) khẩu trang y tế dạng hình chữ nhật, mặt ngoài màu xanh dương, phía trên có dòng chữ “QUOC PHUC NHAN”, kích thước (17,5 x 09)cm;
+ 01 (một) bao tay vải có sọc ngang màu xanh rêu, trắng, cổ bao tay có viền đỏ, kích thước (22,3 x 18,5)cm;
+ 01 (một) tua vít mũi dẹp có chiều dài 12cm, cán bằng nhựa màu tím trong suốt dài 4,9cm, đường kính ngoài 1,6cm; phần mũi kim loại dài 7,1cm; đường kính 0,3cm;
+ 01 (một) cờ lê bằng kim loại màu bạc, trên có dòng chữ “17”, “YETI USA Standard”, có chiều dài 21,8cm;
+ 01 (một) mỏ lết bằng kim loại màu bạc, trên có dòng chữ “8” “FUKUNG” có chiều dài 20,3cm;
+ 01 (một) đôi dép lê dạng xỏ ngón có một vai màu đen, trên đế có dòng chữ “DUWA”, chiều dài 28cm, mặt trên vai dép có một số mảng hoạ tiết màu trắng, cỡ số 41;
+ 01 (một) mũ bảo hiểm dạng lưỡi trai màu xanh đậm, không có nhãn hiệu, mặt phía trên bên trái có hoạ tiết nhân vật Pikachu màu vàng và một số hoạ tiết khác màu trắng nâu, xanh lá có kích thước (27 x 18,5 x 13)cm;
+ 01 (một) mũ lưỡi trai vải Jeans, màu xanh dương, phía trước mũ có dòng chữ “TOMMY JEANS”, kích thước (27 x 16 x 12)cm.
- Đưa vào hồ sơ vụ án 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô, xe máy số A0001353XXX, biển số 78K1-xxx.xx, mang tên Nguyễn Thị X, địa chỉ M, D.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Nguyên đơn dân sự là Ông Nguyễn Minh H- Chủ trì Chùa B và bà Hồ Như C- Chủ trì chùa Từ T không yêu cầu Trần Phúc Q bồi thường, khắc phục gì, nên HĐXX không xem xét; Chị Phạm Thị Minh V yêu cầu Trần Phúc Q bồi thường số tiền 1.530.000 đồng. Trần Phúc Q đã tác động gia đình bồi thường 1.500.000 đồng nên buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho chị V số tiền 30.000 đồng. Chị V được nhận số tiền 1.500.000 đồng tại Chi cục thi hành án huyện D (Theo ủy nhiệm chi số 14 ngày 14/08/2023 của Công an huyện D).
[6] Về án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí HSST và án phí DSST.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Phúc Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Trần Phúc Q 02(Hai) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam(28/3/2023).
* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586 và 589 của Bộ luật dân sự
Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho chị Phạm Thị Minh V số tiền 30.000 đồng. Chị V được nhận số tiền 1.500.000 đồng tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện D (Theo ủy nhiệm chi số 14 ngày 14/08/2023 của Công an huyện D).
Kể từ ngày chị Phạm Thị Minh V có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thi hành án đối với khoản tiền còn lại, sẽ phải chịu lãi suất chậm trả đối với khoản tiền chậm thanh toán theo mức lãi xuất do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật THADS thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu sung quỹ nhà nước:
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX, biển số 78K1-xxx.xx, màu sơn đen đỏ xám bạc, số máy JC52E508XXX;
- Trả cho Trần Phúc Q:
+ 01 (một) Điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J4, màu đen;
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) quần dài vải Jeans màu xanh dương, mặt trong lưng quần có dòng chữ “AIRMAXNIKE”, chiều dài ống quần là 97cm;
+ 01 (một) áo khoác vải dài tay màu xanh dương, khoá kéo dạng phéc - me - tuya; mặt trước có sọc xám, trắng ngang ngực, in dòng chữ “STRONGER” “UNSTOPARLE” màu đen; mặt trên tay áo bên trái có dòng chữ “YOU HRE”, chiều dài lưng áo là 70cm, chiều dài tay áo là 65cm;
+ 01 (một) áo thun ngắn tay có cổ, màu xanh dương, trên ngực trái áo có dòng chữ “GUCI” từ cổ áo đến ống tay áo hai bên có sọc màu trắng ở phía trên, chiều dài lưng áo là 64cm;
+ 01 (một) khẩu trang y tế dạng hình chữ nhật, mặt ngoài màu xanh dương, phía trên có dòng chữ “DCK”, kích thước (17,5 x 09)cm;
+ 01 (một) khẩu trang y tế dạng hình chữ nhật, mặt ngoài màu xanh dương, phía trên có dòng chữ “QUOC PHUC NHAN”, kích thước (17,5 x 09)cm;
+ 01 (một) bao tay vải có sọc ngang màu xanh rêu, trắng, cổ bao tay có viền đỏ, kích thước (22,3 x 18,5)cm;
+ 01 (một) tua vít mũi dẹp có chiều dài 12cm, cán bằng nhựa màu tím trong suốt dài 4,9cm, đường kính ngoài 1,6cm; phần mũi kim loại dài 7,1cm; đường kính 0,3cm;
+ 01 (một) cờ lê bằng kim loại màu bạc, trên có dòng chữ “17”, “YETI USA Standard”, có chiều dài 21,8cm;
+ 01 (một) mỏ lết bằng kim loại màu bạc, trên có dòng chữ “8” “FUKUNG” có chiều dài 20,3cm;
+ 01 (một) đôi dép lê dạng xỏ ngón có một vai màu đen, trên đế có dòng chữ “DUWA”, chiều dài 28cm, mặt trên vai dép có một số mảng hoạ tiết màu trắng, cỡ số 41;
+ 01 (một) mũ bảo hiểm dạng lưỡi trai màu xanh đậm, không có nhãn hiệu, mặt phía trên bên trái có hoạ tiết nhân vật Pikachu màu vàng và một số hoạ tiết khác màu trắng nâu, xanh lá có kích thước (27 x 18,5 x 13) cm;
+ 01 (một) mũ lưỡi trai vải Jeans, màu xanh dương, phía trước mũ có dòng chữ “TOMMY JEANS”, kích thước (27 x 16 x 12) cm.
- Đưa vào hồ sơ vụ án 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô, xe máy số A0001353XXX, biển số 78K1-xxx.xx, mang tên Nguyễn Thị X, địa chỉ M, D.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/08/2023 của cơ quan CSĐT công an huyện D và Chi cục Thi hành án dân sự huyện D).
* Về án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí HSST và án phí DSST.
* Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2023/HS-ST
Số hiệu: | 28/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đồng Xuân - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về