Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRC, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 17/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2023/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

- Thạch Ra Si Đ, sinh ngày 28 tháng 9 năm 1994 tại huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; Nơi thường trú ấp Chợ, xã Long Hiệp, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch An Na Ra, sinh năm 1975 (đã chết) và bà Thạch Thị H, sinh năm 1977 bị cáo có vợ tên Sơn Thị L, sinh năm 2000 và 01 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa từng có tiền án, tiền sự; Bị bị khởi tố vào ngày 13/3/2023 và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến ngày 25/4/2023, có mặt.

- Bị hại: Ông Kim Vũ L, sinh ngày 01/7/1991. Địa chỉ ấp TrTrB, xã HGi, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Thạch D, sinh năm 1942. Địa chỉ ấp Trà Sất C, xã Long Hiệp, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt.

- Người làm chứng:

Bà Thạch Thị Bích Th, sinh năm 1996, vắng mặt. Bà Lư Thị L, sinh năm 1960, vắng mặt.

Bà Thạch Thị G, sinh năm 1985, vắng mặt.

Bà Thạch Thị D, sinh năm 1968, có mặt. Ông Lư Văn H, sinh năm 1978, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: ấp Trà Sất C, xã Long Hiệp, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh Bà Sơn Thị B, sinh năm 1966, có mặt Bà Lư Ngọc H1, sinh năm 1980, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: ấp BTrB, xã TH, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh - Người phiên dịch: Ông Thạch D, sinh năm 1957. Địa chỉ kh5, thị trấn TrC, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 24/10/2022, bị cáo Thạch Ra Si Đ đã có sử dụng rượu, bia đi bộ theo H1 lộ 36 từ hướng ấp Trà Sất C, xã Long Hiệp về hướng ấp Chợ, xã Long Hiệp, huyện TrC có hành vi la lối, lớn tiếng. Sau đó, bà Thạch Thị D, sinh ngày: 01/01/1968 nơi thường trú và nơi ở H tại: ấp Trà Sất C, xã Long Hiệp, huyện TrC là cô ruột bị cáo đang ở trong nhà nghe được, nên bà D kêu ông Kim Vũ L, sinh ngày: 01/01/1991 nơi thường trú và nơi ở H tại: ấp Trà Tro B, xã Hàm Giang, huyện TrC điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter Gravita, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 84D1 - X chở bà D đến nhà cha ruột tên Thạch D, sinh ngày: 01/01/1942 nơi thường trú và nơi ở H tại: ấp Trà Sất C, xã Long Hiệp, huyện TrC cũng là ông ngoại của bị cáo để xin số điện thoại cha, mẹ bị cáo, nhằm mục đích gọi cho cha, mẹ của bị cáo đến chở bị cáo về nhà.

Lúc này, ông L đồng ý và điều khiển xe mô tô nêu trên chở bà D từ nhà của bà D đến nhà ông Thạch D. Khi đến ông L dựng xe mô tô trước sân nhà của ông D và đứng chờ bà D ở thềm nhà trước, còn bà D thì đi vào nhà ông D để xin số điện thoại của cha, mẹ bị cáo. Lúc này, bị cáo đang nằm trên nệm tại nhà trước của ông D, bị cáo nhìn thấy ông L đang đứng một mình ở trước thềm nhà, bị cáo nảy sinh ý định đánh ông L. Sau đó, bị cáo lấy được một cây búa có cán bằng gỗ chiều dài 30cm, rộng 4cm, lưỡi búa bằng kim loại dài 11,7cm, đã qua sử dụng của ông D để dưới giường ngủ, tay phải cầm cán búa đi từ trong nhà đi ra, thấy bị cáo cầm cây búa ông L bỏ chạy, bị cáo dùng cây búa đang cầm đánh vào chiếc xe mô tô của ông L đang dựng trước nhà ông D nhiều cái gây hư hỏng ở nhiều vị trí, rồi tiếp tục cầm cây búa đuổi theo ông L một đoạn khoảng 40m và ném búa về hướng L một cái nhưng không trúng, ông L sợ nên chạy trốn bị cáo. Sau đó, bị cáo không đuổi theo nửa mà quay lại nhặt lấy cây búa rồi đi về nhà ông D.

Khi quay lại nhà ông D bị cáo nhìn thấy bà D từ trong nhà đi ra, bị cáo tiếp tục cầm búa đuổi theo bà D, thấy vậy bà D bỏ chạy thẳng vào tiệm tạp hóa của bà Lư Thị L, sinh năm: 1960 ngụ cùng đia chỉ: ấp Trà Sất C, xã Long Hiệp cách nhà ông D khoảng 30m trốn, sau khi đuổi theo bà D được một đoạn bị cáo cầm cây búa quay lại chổ xe của ông L, bị cáo tiếp tục dùng búa đang cầm đánh nhiều cái vào xe mô tô của ông L làm hư hỏng. Lúc này, nhà ông D đóng cửa, xung quanh không thấy ai, trời tối. Bị cáo nhìn thấy trên xe mô tô của ông L có một cái ba lô (để ở baga xe). Bị cáo đã lén lút lấy trộm chiếc ba lô nêu trên và mang trên vai đi bộ về hướng ấp Ba Trach B, xã Tân Hiệp. Trên đường đi bị cáo kéo dây kéo ba lô ra và để cây búa vào trong ba lô rồi tiếp tục mang ba lô trên vai đi về ấp Ba Trạch B.

Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo đi bộ đến nhà ông Lư Ngọc H1, sinh ngày: 15/10/1980, địa chỉ: ấp Ba Trạch B, xã Tân Hiệp, huyện TrC là chổ bị cáo quen biết. Thấy bị cáo mang theo ba lô ông H1 hỏi đi đâu bị cáo nói đi làm thuê, sau đó bị cáo mở ba lô ra kiểm tra thì thấy có tài sản gồm: 01 cái bóp màu nâu; 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 cái quần thun thể thao màu đen; 01 cái quần lót nam màu đỏ; 01 cái áo thun màu đen; 01 cái áo thun màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu trắng vàng - đồng; 01 cái ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu đen đang áp trên lưng điện thoại; 01 thẻ sim điện thoại di động đang gắn trong điện thoại và tiền Việt Nam 350.000 đồng. Sau khi trộm được tiền bị cáo lấy số tiền 100.000 đồng đến tiệm tạp hóa của bà Sơn Thị B, sinh ngày: 01/01/1966 địa chỉ: ấp Ba Trạch B, xã Tân Hiệp, huyện TrC mua thức ăn và thuốc hút. Đến ngày 25/10/2022, Công an mời bị cáo làm việc và đã thừa nhận toàn bộ hành vi của bị cáo. Đồng thời, giao nộp toàn bộ tài sản mà bị cáo trộm của ông Kim Vũ L cho Cơ quan Công an để tạm giữ và quản lý.

Căn cứ vào Bản kết luận định giá tài sản số: 27/KL-HĐĐG ngày 28/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TrC, kết luận: Tại thời điểm xảy ra vụ trộm cắp tài sản (ngày 24/10/2022): 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus có giá 2.500.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus có giá 50.000 đồng; 01 thẻ sim điện thoại di động số đăng ký 84389X79 (tài khoản không đồng) có giá 100.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 2.650.000 đồng. Ngoài ra bị cáo còn lấy tiền của Kim Vũ L là 350.000 đồng. Tổng tài sản bị thiệt hại là 3.000.000 đồng.

Căn cứ vào Bản kết luận định giá tài sản số: 28/KL-HĐĐGTS ngày 01/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TrC, kết luận: Phụ tùng xe mô tô, biển số: 84D1 - X, nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu sơn đen - đỏ, đăng ký sử dụng năm 2008, giá trị sử dụng còn lại 20%. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 816.600 đồng.

Về việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, xử lý vật chứng:

+ Tạm giữ của ông Kim Vũ L: 01 xe mô tô, biển số: 84D1 - X, nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu sơn đen - đỏ, đã qua sử dụng.

+ Tạm giữ từ bị cáo Thạch Ra Si Đ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu trắng - vàng - đồng, đã qua sử dụng; 01 cái ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu đen, đã qua sử dụng; 01 thẻ sim điện thoại di động số đăng ký 84389X79 (tài khoản không đồng); 01 cây búa có cán bằng gỗ chiều dài 30cm, rộng 4cm, lưỡi búa bằng kim loại dài 11,7cm, đã qua sử dụng; tiền Việt Nam 250.000 đồng.

Đến ngày 03/12/2022, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý tài sản trao trả lại cho ông Kim Vũ L nhận lại để quản lý: 01 xe mô tô, biển số: 84D1 - X, nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu sơn đen - đỏ, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu trắng - vàng - đồng, đã qua sử dụng; 01 cái ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu đen, đã qua sử dụng; 01 thẻ sim điện thoại di động số đăng ký 84389X79 (tài khoản không đồng) và tiền Việt Nam 250.000 đồng. Riêng các vật chứng còn lại H đang quản lý tại Kho vật chứng Nhà tạm giữ Công an huyện TrC.

Tại Cáo trạng số: 33/CT-VKS-HS, ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Thạch Ra Si Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Thạch Ra Si Đ trình bày: Do bị cáo và bị hại Kim Vũ L có mâu thuẫn nhau từ trước, ngày xảy ra vụ án do gặp bị cáo thì bị hại nhìn “lé” và thách thức đánh nhau nên bị cáo mới lấy cây búa ở nhà ông D rượt chém bị hại, nếu như bị cáo không chém bị hại thì bị hại cũng sẽ đánh bị cáo. Khi bị cáo rượt chém bị hại thì bị hại chạy vô chùa trốn nên bị cáo quay lại đập phá xe của bị hại Kim Vũ L, lúc này bị cáo nhìn thấy trên xe mô tô của bị hại có để 01 cái ba lô nên bị cáo lấy ba lô cho bỏ tức. Sau khi lấy ba lô xong thì bị cáo đến nhà ông Lữ Ngọc H1 mở ba lô ra thì thấy có quần áo, 01 điện thoại Iphone 6 Plus và tiền 350.000 đồng. Bị cáo lấy 100.000 đồng đi mua rượu uống, còn lại Công an thu giữ.

Phần luận tội, sau khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh, tính chất mức độ hành vi của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo Thạch Ra Si Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Thạch Ra Si Đ từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét. Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu và tiêu hủy 01 cây búa có cán bằng gỗ chiều dài 30cm, rộng 4cm, lưỡi búa bằng kim loại dài 11,7cm, đã qua sử dụng. Về án phí đề nghị buộc bị cáo chịu 200.000 đồng.

Bị cáo tự bào chữa cho rằng bị cáo không có lỗi, do bị hại thách thức đánh bị cáo nên bị cáo lấy đồ của bị hại cho bỏ tức nên bị cáo không có lỗi.

Kiểm sát viên đối đáp với bị cáo Thạch Ra Si Đ: Vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội với bị cáo Thạch Ra Si Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại biên bản sự việc ngày 24/10/2022, quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa bị cáo Thạch Ra Si Đ có lời khai là vào khoảng 19 giờ 40 phút ngày 24/10/2022, tại ấp Trà Sất C, xã Long Hiệp, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh. Bị cáo Thạch Ra Si Đ đã có hành vi lấy của bị hại Kim Vũ L 01 ba lô có đựng quần áo, 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPhone 6 Plus, 01 cái ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu IPhone 6 Plus, 01 thẻ sim điện thoại di động số đăng ký 84389X79 và tiền Việt Nam số tiền là 350.000 đồng. Xét lời khai của bị cáo Thạch Ra Si Đ là phù hợp với H trường án, phù hợp với thời gian bị cáo có mặt tại H trường vụ án, phù hợp lời khai của bà Thạch Thị D, ông Kim Vũ L, ông Lư Ngọc H1 và phù hợp Bản kết luận định giá tài sản số: 28/KL-HĐĐGTS ngày 01/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TrC.

[2] Qua tranh tụng tại phiên tòa, không chứng minh được bị cáo Thạch Ra Si Đ có hành vi công khai lấy tài sản của bị hại trước sự chứng kiến của bị hại và bị cáo không có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của bị hại mà sau khi bị cáo đập phá tài sản của bị hại vì động cơ giải quyết mâu thuẫn cá nhân thì lúc này bị hại đã rời khỏi khu vực H trường vụ án và bị hại không còn bị đe dọa trực tiếp bởi hành vi đuổi chém của bị cáo. Khi không còn ai ở H trường vụ án, lúc này bị hại cũng không quay lại H trường vụ án mà và bị cáo đã nãy sinh ý định lấy tài sản của bị hại cho bỏ tức nên bị cáo đã có hành vi lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của bị hại Kim Vũ L để thực H hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại mà bị hại không biết. Hành vi của bị cáo Thạch Ra Si Đ đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực H hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo nhận thức rõ mình thực H hành vi bị pháp luật cấm, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực H. Do đó, hành vi của bị cáo Thạch Ra Si Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Mặc dù, tội phạm bị cáo Thạch Ra Si Đ thực H là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo thể H tính chất coi thường sự nghiêm minh của pháp luật, qua xác minh chính quyền cơ sở thì bị cáo thường xuyên uống rượu, không lo lao động hay gây rối trật tự công cộng tại địa phương. Qua xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo vẫn không biết ăn năn, hối cải và cho rằng hành vi của bị cáo thực H như vậy là đúng. Để góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân và của địa phương thì hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo pháp luật, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm để giáo Dc, cải tạo bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội đối với những hành vi tương tự. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét quá trình điều tra, truy tố thì bị cáo khai báo đúng với hành vi bị cáo thực H, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là người dân tộc thiểu số (Khmer) có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về dân sự: Bị hại Kim Vũ L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cây búa có cán bằng gỗ chiều dài 30cm, rộng 4cm, lưỡi búa bằng kim loại dài 11,7cm, đã qua sử dụng là công cụ bị cáo sử dụng gây án cần tịch thu và tiêu hủy.

[6] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Hội đồng xét xử đã thẩm tra các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố và thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thực H đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Thạch Ra Si Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo Thạch Ra Si Đ 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại Kim Vũ L không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy 01 cây búa có cán bằng gỗ chiều dài 30cm, rộng 4cm, lưỡi búa bằng kim loại dài 11,7cm, đã qua sử dụng;

Về án phí: Buộc bị cáo Thạch Ra Si Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Thạch Ra Si Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại Kim Vũ L, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Thạch D vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết công khai hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2023/HS-ST

Số hiệu:28/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về