TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PRÔNG, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2023/TLST- HS ngày 22 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2023/HSST-QĐ ngày 23 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Duy C (tên gọi khác: Tr), sinh ngày 14 tháng 11 năm 1995, tại tỉnh Đắk Lắk; Trú tại: Thôn 4, xã Cư Suê, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn Hương (đã chết) và bà Lương Thị Khương, sinh năm 1957; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/11/2013 bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 13/6/2016 bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 24/11/2022 bị TAND Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Hiện bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
Ông Vũ Văn V, sinh năm 1980; Trú tại: Tổ dân phố 5, thị trấn Chư Prông, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Văn Trà, sinh năm 1980; Trú tai: Tổ dân phố 5, thị trấn Chư Prông, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Võ Tr, sinh năm 1982; Trú tại: Làng Klũh Kãh, xã Ia Bòong, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Ông Trịnh Viết T, sinh ngày 1994; Trú tại: Thôn 4, xã Hòa Thắng, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1973; Trú tại: Khu tập thể Bến xe Đức Long, số 43 Lý Nam Đế, phường Trà Bá, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng:
Bà Nguyễn Thị Tường V, sinh năm 1998; Trú tại: Khu tập thể Bến xe Đức Long, số 43 Lý Nam Đế, phường Trà Bá, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ ngày 26 /7/2021 anh Vũ Văn V điều khiển xe Honda Winner biển kiểm soát 81B2-899.xx đến nhà anh Lê Văn Trà ở làng Klũh Klãh, xã Ia Bòong, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai để xe trong sân nhà anh Trà rồi cùng anh Trà đi công việc. Khoảng 10 giờ ngày 26/7/2021, Nguyễn Duy C ở trọ tại làng Klũh Klãh, xã Ia Bòong, huyện Chư Prông điều khiển xe Honda Wave màu xanh biển kiểm soát 35F4-17xx Chí mượn của anh Nguyễn Võ Tr trú tại làng Klũh Klãh, xã Ia Bòong, huyện Chư Prông đến nhà anh Trà để hái xả về nấu ăn thì nhìn thấy chiếc xe Honda Winner biển kiểm soát 81B2-899.xx không có người trông coi nên Chí nảy sinh ý định lấy chiếc xe mô tô này. Sau đó Chí để chiếc xe Honda Wave biển kiểm soát 35F4-17xx lại trước nhà anh Trà rồi điều khiển xe Honda Winner biển kiểm soát 81B2-899.xx đi về Đắk Lắk. Khi về đến Đắk Lắk, Chí tháo vỏ xe và biển kiểm soát 81B2-899.xx cho vào một cái bao rồi sau đó gắn biển kiểm soát 29D2-094.xx. Sau đó Chí đem xe đến nhà Trịnh Viết T tại thôn 4, xã Hòa Thắng, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Chí nói với Tầm “Em nợ tiền anh nên để chiếc xe ở đây, vài ngày sau em tới trả tiền rồi lấy xe” thì Tầm đồng ý, Tầm có hỏi nguồn gốc xe thì Chí nói là xe của Chí rồi để xe lại nhà Tầm. Sau đó Chí liên lạc bằng điện thoại với Nguyễn Thị Tường V là người sống trọ cùng Chí tại làng Klũh Klãh, xã Ia Bòong, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, Chí nói cho Vân biết việc đã lấy xe mô tô biển kiểm soát 81B2-899.xx về Đắk Lắk gán nợ cho Trịnh Viết T. Vân đã thông báo cho bố là ông Nguyễn Văn T trình báo với Cơ quan điều tra.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 29/KL- HĐĐGTS ngày 09/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Prông. Xác định giá trị thiệt hại của tài sản là 31.500.000 đồng.
Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Duy C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Duy C không có ý kiến hay khiếu nại gì về biên bản kết luận định giá nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKS-CPR ngày 19 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy C ra trước Toà án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai để xét xử về tội “Trộm Cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Duy C từ 24 tháng tù đến 28 tháng tù; Áp dụng Điều 55, 56, 104 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án (với Bản án số 112/2022/HSST ngày 24/11/2022 của Tòa án nhân dân Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh là 04 năm 06 tháng tù) từ 06 năm 06 tháng tù đến 06 năm 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2021.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo Nguyễn Duy C không có nghề nghiệp và tài sản gì có giá trị cho nên đề nghị Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Duy C xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Prông, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Bị cáo Nguyễn Duy C đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của những người liên quan. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận: Vào lúc 10 giờ ngày 26 tháng 7 năm 2021 tại nhà của anh Lê Văn Trà thuộc làng Klũh Klãh, xã Ia Boòng, huyện Chư Prông, bị cáo Nguyễn Duy C lợi dụng nhà anh Trà không có người đã lén lút chiếm đoạt 01chiếc xe mô tô Honda Winner biển kiểm soát 81B2-899.xx của Vũ Văn V có giá trị là 31.500.000 đồng. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Duy C phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản như trên của bị cáo Nguyễn Duy C là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Ngoài ra bị cáo có nhân thân xấu cụ thể: Ngày 29/11/2013 bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 13/6/2016 bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 24/11/2022 bị TAND Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ý thức chấp hành pháp luật kém. Do đó cần xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng nhận thấy bị cáo quá trình điều tra, kiểm sát điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét cho bị cáo khi lượng hình.
[4] Liên quan đến vụ án còn có Trịnh Viết T là người đã giữ chiếc xe của Nguyễn Duy C để trừ nợ. Quá trình điều tra xác định Tầm không biết nguồn gốc chiếc xe trên là do Chí trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý Trịnh Viết T về hành vi “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
Đối với Nguyễn Thị Tường V là người sống trọ cùng bị cáo tại làng Klũh Klãh, xã Ia Bòong, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Lúc bị cáo trộm cắp chiếc xe tại nhà anh Trà thì Vân không biết. Sau khi bị cáo điều khiển xe về Đắk Lắk bị cáo nói cho Vân biết là đã trộm cắp chiếc xe trên và gán cho anh Trịnh Viết T để trừ nợ.
Sau đó Vân đã thông báo cho gia đình và cơ quan công an biết sự việc trên. Do đó hành vi của Nguyễn Thị Tường V không đồng phạm với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật hình sự và không phạm tội “Không tố giác tội phạm” quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo Nguyễn Duy C không có nghề nghiệp và tài sản gì có giá trị cho nên Hội đồng xét xử quyết định không phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như đơn xin xét xử vắng mặt người bị hại anh Vũ Văn V đã nhận lại tài sản bị mất, người bị hại anh Vũ Văn V không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Lê Văn Trà, Nguyễn Võ Tr, Trịnh Viết T, Nguyễn Văn T trong quá trình giải quyết vụ án cũng như trong đơn xin xét xử vắng mặt không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về vật chứng: 01 (một) xe mô tô Honda Winner biển kiểm soát 81B2- 899.xx, Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Prông đã trả lại cho chủ sỡ hữu hợp pháp là anh Vũ Văn V là đúng quy định pháp luật.
Đối với 01(một) chiếc cờ lê và 01 tô vít bị cáo sử dụng để tháo vỏ xe và biển số, sau khi sử dụng xong bị cáo đã làm mất không rõ ở đâu nên không có cơ sở để truy tìm.
Đối với 01 (một) biển kiểm soát 29D2-094.xx là biển số của xe máy do bà Đỗ Ngọc Phương Quỳnh đứng tên chủ sở hữu. Quá trình điều tra xác định bà Quỳnh kinh doanh buôn bán xe máy, khi nhập xe về thì làm thủ tục đứng tên của bà Quỳnh rồi bán cho khách, chiếc xe 29D2-094.xx bà Quỳnh đã bán không xác định được người mua là ai. Vì vậy, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục bảo quản biển số xe và tiếp tục xác minh để xử lý theo quy định pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy C 02 (hai) năm tù.
Áp dụng Điều 55, Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, tổng hợp hình phạt 04 năm 06 tháng tù tại Bản án số 112/2022/HSST ngày 24/11/20222 của Tòa án nhân dân Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 26/12/2021.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Duy C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2023/HS-ST
Số hiệu: | 28/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Prông - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về