Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phan Trần Bảo K, sinh ngày 25/11/2001 tại Đồng Tháp, số thẻ căn cước công dân 342020056;

Nơi cư trú: ấp Phú Nh, xã Tân Nhuận Đg, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Trần Quốc N sinh năm 1979 và bà Trần Thị Thanh Th sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: không; tiền án 01 lần: Bản án số 42/2020/HS-ST ngày 25-5-2020 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xử phạt Phan Trần Bảo K 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bản án số 78/2020/HS- PT ngày 02-7-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phạt bị cáo Phan Trần Bảo K 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 02 bản án buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 năm 09 tháng tù, bị cáo chấp hành xong ngày 29/9/2021. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25-12-2021, tạm giam ngày 31-12-2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thanh S, sinh ngày 02/6/2001 tại Trà Vinh, số thẻ căn cước công dân 084201010325;

Nơi cư trú: ấp Mé L, xã Ngũ L, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ sinh năm 1976 và bà Phan Thị Quê H sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: không; tiền án: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 18-12-2021, tạm giam ngày 27-12-2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Huỳnh Lê Xuân H, sinh năm 1988; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Quang Kh, xã Quơn L, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1991; (vắng mặt) Nơi cư trú: B4/19C, Khu phố 2, thị trấn Tân T, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Phan Thị Quê H, sinh năm 1974; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Đại Th, xã Hưng M, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 17/12/2021 Phan Trần Bảo K chở Nguyễn Thanh S bằng xe mô tô hiệu Wave màu đỏ (không nhớ biển số) đi từ Long An đến Tiền Giang để tìm tài sản trộm (quá trình đi thì K và S thay phiên chở nhau). Khi đi ngang nhà trọ của chị Lê Thị Bảo V thuộc ấp Long Th, xã Quơn L, huyện Chợ Gạo thì phát hiện xe mô tô biển số 63B4-270.26 của anh Huỳnh Lê Xuân H đậu trước nhà trọ không rút chìa khóa nên S điều khiển chạy quay lại, K kêu S đậu xe bên ngoài cảnh giới, K vào lấy xe chạy về Long An, sau đó S liên hệ với Nguyễn Văn T sinh năm 1991 ngụ B4/19C, Khu phố 2, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh bán với giá 4.000.000 đồng, nhưng T chỉ đưa trước có 1.500.000 đồng. Do xe có gắn định vị nên lực lượng Công an đến thu giữ xe và bắt giữ K, S.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 97/KL-ĐGTS ngày 21-12-2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Gạo xác định: 01 xe mô tô biển số 63B4-270.26, màu sơn: đỏ-trắng-đen, nhãn hiệu Yamaha Sirus 110, số máy 5C6K- 123493, số khung C6K0DY123482, mua năm 2014 trị giá 8.520.000 đồng.

Bản cáo trạng số 15/CT-VKSCG ngày 15-4-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang truy tố hành vi của các bị cáo Phan Trần Bảo K và Nguyễn Thanh S đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Phan Trần Bảo K và Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phan Trần Bảo K: Từ 18 – 24 tháng tù.

* Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh S từ 12 – 18 tháng tù.

* Trách nhiệm bồi thường dân sự:

- Anh Huỳnh Lê Xuân H đã nhận lại xe không có ý kiến yêu cầu gì khác. Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Anh Nguyễn Văn T không yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 1.500.000 đồng.

Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

* Xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 01 (một) áo sơ mi dài tay màu đen, hiệu ZARA MAN; 01 (một) quần Jean dài màu đen xám, hiệu FLRIENDS; 01 (một) sim điện thoại số 0702582207. Trả cho chị Phan Thị Quê H 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, màu xanh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa các bị cáo Phan Trần Bảo K và Nguyễn Thanh S đã khai nhận hành vi mà các bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo đã truy tố đối với các bị cáo. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 17/12/2021 Phan Trần Bảo K chở Nguyễn Thanh S bằng xe mô tô hiệu Wave màu đỏ (không nhớ biển số) đi từ Long An đến Tiền Giang để tìm tài sản trộm (quá trình đi thì K và S thay phiên chở nhau). Khi đi ngang nhà trọ của chị Lê Thị Bảo V thuộc ấp Long Th, xã Quơn L, huyện Chợ Gạo thì phát hiện xe mô tô biển số 63B4-270.26 của anh Huỳnh Lê Xuân H đậu trước nhà trọ không rút chìa khóa nên S điều khiển chạy quay lại, K kêu S đậu xe bên ngoài cảnh giới, K vào lấy xe chạy về Long An, sau đó S liên hệ với Nguyễn Văn T bán với giá 4.000.000 đồng, nhưng T chỉ đưa trước có 1.500.000 đồng, bị cáo K và bị cáo S chia nhau tiêu xài.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “ Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Các bị cáo Phan Trần Bảo K và Nguyễn Thanh S chiếm đoạt tài sản có giá trị 8.520.000 đồng, do đó hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm bất hợp pháp đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài không phải bỏ công sức lao động nên các bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm. Khi thực hiện tội phạm không có sự bàn bạc, phân công trước nên thuộc trường hợp phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn.

Bị cáo Phan Trần Bảo K thực hiện tội phạm với vai trò là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Về nhân thân bị cáo có 02 tiền sử về “Trộm cắp tài sản”, 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này là tái phạm. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo chưa nhận thức được việc làm sai trái của mình vẫn tiếp tục thực hiện trộm cắp tài sản. Điều đó cho thấy ý thức rất xem thường pháp luật của bị cáo, do đó cần có mức án thật nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho xã hội. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội với vai trò là người giúp sức cho K thực hiện trộm cắp xe mô tô. Bị cáo có 04 tiền sử về các hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản”. Do đó cần có tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt có ích cho xã hội. Xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3] Lời luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị kết tội các bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và hướng giải quyết về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng là có cơ sở. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Gạo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

- Anh Huỳnh Lê Xuân H đã nhận lại xe không có ý kiến yêu cầu gì khác. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Anh Nguyễn Văn T không yêu cầu các bị cáo bồi thường lại số tiền cầm xe 1.500.000 đồng. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng không có giá trị: 01 (một) áo sơ mi dài tay màu đen, hiệu ZARA MAN; 01 (một) quần Jean dài màu đen xám, hiệu FLRIENDS; 01 (một) sim điện thoại số 0702582207.

Trả cho chị Phan Thị Quê H 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, màu xanh.

Về án phí:

Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm; Theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Phan Trần Bảo K và Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phan Trần Bảo K 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25- 12-2021.

* Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18-12-2021.

+ Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) áo sơ mi dài tay màu đen, hiệu ZARA MAN; 01 (một) quần Jean dài màu đen xám, hiệu FLRIENDS; 01 (một) sim điện thoại số 0702582207.

Trả cho chị Phan Thị Quê H 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, màu xanh.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26-4-2022)

+ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Phan Trần Bảo K và Nguyễn Thanh S mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

+ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Các bị cáo, chị Phan Thị Quê H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại, người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về