Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 28/2021/HSST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại Phòng xử án Toà án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh – Số 416/2 đường Dương Quảng Hàm, Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/2021/HSST ngày 01/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 01/3/2021, đối với bị cáo:

Lê Thị B1 (Lâm Thị O1); sinh năm 1962, tại tỉnh Bình Thuận; Hộ khẩu thường trú: Số A ấp B, xã HT, huyện HTN, tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: Nhà không số đường TN, tổ C, phường BK, Quận D, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tr (chết) và bà Trương Thị N (chết); chồng Nguyễn Hoàng H1 (chết) có 03 con lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1989; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

-Ngày 22/2/1993 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

-Ngày 20/7/1995 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

-Ngày 18/3/1997 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

-Ngày 18/12/2000 bị Tòa án nhân dân tối cao tại Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

-Ngày 15/3/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt tạm giam ngày 14/10/2020 (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

Bà Vũ Thị Thu Tr1, sinh năm 1971 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số E đường TN, Phường F, quận GV, Tp. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 55 phút ngày 14/10/2020, Lê Thị B1 đi bộ đến trước nhà chị Vũ Thị Thu Tr1, sinh năm 1971, nơi cư trú: Số E đường TN, Phường F, quận GV, Tp. Hồ Chí Minh thì nhìn thấy cửa mở trong nhà không có ai nên B1 đi vào tìm tài sản để trộm. B1 vào phòng ngủ lấy trộm 01 máy tính xách tay hiệu Microsoft Surface 317 màu đen, ốp màu xám của chị Trang giấu vào trong bụng thì bị chị Trang phát hiện bắt giữ giao Công an Phường F, quận GV lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận GV, Tp. Hồ Chí Minh, Lê Thị B1 đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của bản thân như đã nêu trên.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 59/KL-HĐĐGTS ngày 20/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Uỷ ban nhân dân quận GV, Tp. Hồ Chí Minh kết luận: 01 (một) máy tính xách tay hiệu Microsoft Surface 317 màu đen, ốp màu xám có giá trị là 6.833.333 đồng.

Tại bản cáo trạng số 34/CTr–VKS ngày 29/01/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận GV, Tp. Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Thị B1 về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn để áp dụng hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Thị B1 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận GV, Tp. Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận GV, Tp. Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Thị B1 tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Việc truy tố, luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận GV, Tp. Hồ Chí Minh đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Thị B1 phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi muốn chiếm đoạt tài sản để tiêu xài cá nhân nên vẫn cố tình phạm tội. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, cần phải có mức án thoả đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục và phòng chống tội phạm nói chung.

[4]. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên áp dụng điểm h, s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5, Điều 173 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Đối với bà Vũ Thị Thu Tr1, tại phiên tòa bà Tr1 vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện bà Trang đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường và cũng không có ý kiến gì khác nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7]. Về xử lý vật chứng:

[7.1]. Đối với 01 (một) máy tính xách tay hiệu Microsoft Surface 317 màu đen, ốp màu xám là tài sản của bà Vũ Thị Thu Tr1. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà Tr1 là đúng theo quy định của pháp luật.

[7.2]. Đối với 01 (một) USB màu xanh bên trong có chứa dữ liệu ghi lại hình của bị cáo B1 thực hiện hành vi phạm tội. Xét thấy, là vật chứng của vụ án nên lưu theo hồ sơ vụ án.

[8]. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

[9]. Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thị B1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm h, s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Thị B1 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2020.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Lưu hồ sơ vụ án 01 (một) USB màu xanh (kèm theo hồ sơ vụ án).

Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, 7a, 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2021/HSST

Số hiệu:28/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về