TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH B
BẢN ÁN 275/2022/HS-ST NGÀY 13/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 13 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 238/2022/HSST ngày 16 tháng 8 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2022/HSST - QĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1991, tại Bình Dương; thường trú: 34/1A, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1970; có 01 chị ruột sinh năm 1988; Vợ: Không; tiền sự: Không;
Tiền án: Ngày 24/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh B xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/10/2021.
Nhân thân: Ngày 14/9/2016, Tòa án nhân dân thị xã D (nay thành phố D), tỉnh B xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2022 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Anh Nguyễn Đặng C, sinh năm 1971; địa chỉ: Số 32, đường 4, khu dân cư Đại Quang, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B, có đơn giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hà Thị C1, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn 1, xã V, huyện K, tỉnh T, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 26/5/2022, H (không nhân thân, lai lịch) điều khiển xe máy hiệu Honda Wave không rõ biển số xe đến nhà Nguyễn Tấn Đ rủ Đ đi mua ma túy thì Đ đồng ý. Khi đi qua nhà của anh Nguyễn Đặng C tại địa chỉ đường N4, khu dân cư Đại Quang, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B thì Nguyễn Tấn Đ phát hiện 01 rơ mooc kéo (dùng để móc xe mô tô lôi chở hàng) của anh Nguyễn Đặng C để trước xưởng than nhà anh C nên rủ H cùng chiếm đoạt rơ mooc kéo thì H đồng ý. Nguyễn Tấn Đ dùng tay cầm đầu kéo của rơ mooc rồi ngồi lên xe để H chở kéo đi đến tiệm ve chai bán cho bà Hà Thị C1, địa chỉ Tổ 22, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh B được số tiền 440.000 (bốn trăm bốn mươi nghìn) đồng, sau đó cả hai đi mua ma túy sử dụng.
Căn cứ tại bản kết luận định giá số 82/BBĐG ngày 11/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố Dĩ An kết luận: 01 rơ mooc bằng sắt loại 02 bánh (dùng để móc xe lôi), quy cách dài 1,5m, rộng 01 m, chiều cao tH 0,7m đã qua sử dụng có giá trị 1.000.000 (một triệu) đồng.
Tại cáo trạng số 259/CT - VKS ngày 15 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B truy tố bị cáo Nguyễn Tấn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B giữ nguyên quyết định truy tố về tội Trộm cắp tài sản đối với bị cáo. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù và giải quyết trách nhiệm dân sự theo quy định pháp luật.
Tài sản chiếm đoạt không thu hồi được.
Đối với tên H (chưa rõ nhân thân lai lịch) cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D, tỉnh B tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.
Đối với bà Hà Thị C1 khi mua rơmooc không biết tài sản do Đ bán là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Đặng C không yêu cầu bị cáo Nguyễn Tấn Đ bồi thường.
Tại phiên tòa, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các chứng cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, xác định: Bị cáo Nguyễn Tấn Đ, có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là rơ mooc bằng sắt loại 02 bánh (dùng để móc xe lôi), quy cách dài 1,5m, rộng 01 m, chiều cao tH 0,7m của người bị hại anh Nguyễn Đặng C vào lúc 06 giờ ngày 26/5/2022, giá trị tài sản chiếm đoạt theo định giá là 1.000.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Trần Quốc Bảo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 259/CT - VKS ngày 15 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam tư lợi đã cố tình thực hiện. Bị cáo đã bị xử tù về tội trộm cắp tài sản nhưng nay lại tiếp tục phạm tội thể hiện thái độ coi thường pháp luật, không có tính hướng thiện cho bản thân. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Nguyễn Tấn Đ.
[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xét xử về tội trộm cắp tài sản.
[7] Đối với bà Hà Thị C1 khi mua rơmooc không biết tài sản do Đ bán là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là phù hợp quy định của pháp luật.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Đặng C không yêu cầu Nguyễn Tấn Đ bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[9] Xét Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng điều luật, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.
[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn Đ phạm Tội trộm cắp tài sản.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ từ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/6/2022.
2. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Tấn Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 275/2022/HS-ST
Số hiệu: | 275/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về