Bản án về tội trộm cắp tài sản số 274/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 274/2023/HS-PT NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Q, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 251/2023/HS-PT ngày 03 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Đức T và đồng phạm. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2023/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Q.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Đức T (tên gọi khác: Cu Đ), sinh ngày 14 tháng 02 năm 1996 tại huyện N, tỉnh Q; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã P, huyện N, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm S, sinh năm 1969 và bà Võ Thị L, sinh năm 1970; vợ là Phạm Thị N, sinh năm 1996 và có 02 con (con lớn sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2020). Tiền án: không; tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 18/6/2015, bị cáo bị Công an huyện N, tỉnh Q xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”; ngày 26/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Q xử phạt 09 tháng Cải tạo không giam giữ, về tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/02/2023 đến ngày 07/4/2023; hiện đang được tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm S, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1969 tại huyện N, tỉnh Q; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã P, huyện N, tỉnh Q; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: Lớp 5/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Y (chết) và bà Hồ Thị H; vợ là Võ Thị L, sinh năm 1970, có 06 người con (con lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1996). Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguvễn Hữu H1, sinh ngày 10 tháng 5 năm 1982 tại huyện N, tỉnh Q; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ Dân phố T, thị trấn T, huyện N, tỉnh Q; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyên Tấn P, sinh năm 1944 và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1948; vợ là Phạm Thị Tuyết L2, sinh năm 1984 và có 02 con, nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang được tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Võ Văn L3, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1976 tại huyện N, tỉnh Q; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã P, huyện N, tỉnh Q; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ L4, sinh năm 1936 (chết) và bà Đào Thị Í, sinh năm 1940; vợ là Đặng Thị T1, sinh năm 1977 và có 02 người con (con lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2013). Tiền án: không; tiền sự: Không.

Bị cáo đang được tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 24/11/2022, Tổ công tác liên ngành của UBND xã Q (nay là UBND thị trấn T), huyện N (gọi tắt là Tổ công tác), trong quá trình kiểm tra, truy quét các đối tượng khai thác rừng trái phép đã phát hiện và bắt quả tang các bị cáo: P, Võ Văn L3, Nguyễn Hữu H1 đang có hành vi khai thác gỗ trái phép tại tiểu khu D, thuộc địa phận Tổ dân phố N, thị trấn T, huyện N, tỉnh Q, được quy hoạch rừng phòng hộ tự nhiên. Tang vật thu giữ tại hiện trường gồm 52 khúc gỗ (đã được cắt ngắn khoảng từ 25 cm đến 50 cm, loại gỗ chuồn nhóm III, được đánh số ký hiệu có thứ tự từ L1 đến L52, có tổng khối lượng 2.531 m3), một máy cưa xăng, hiệu STILL, màu trắng - cam đã qua sử dụng. Về số gỗ bị tạm giữ, các bị cáo S, L3 và Hữu H1 khai nhận đây là số gỗ mà họ khai thác từ khoảng 03 hôm trước đó. Sau khi tiến hành lập biên bản làm việc và bảng kê lâm sản kèm theo, Tổ công tác cho các bị cáo Phạm S, Nguyễn Hữu H1 và Võ Văn L3 ra về.

Sáng ngày 25/11/2022, Tổ công tác vào lại hiện trường để tổ chức đưa gỗ tang vật về bảo quản tại UBND xã Q thì phát hiện một số khúc gỗ bị mất. Tại hiện trường còn lại 04 khúc (có ký hiệu: L10, L11, L13 và L16, có tổng khối lượng là 0.180 m3), mất 48 khúc gỗ.

Kết quả điều tra, xác minh thể hiện: Sau khi được Tổ công tác cho về, tối ngày 24/11/2022, các bị cáo Phạm S, Võ Văn L3 và Nguyễn Hữu H1 đà trao đổi, bàn bạc và thống nhất cùng vào lại khu vực hiện trường nơi tập kết gỗ ban chiều để lấy trộm gỗ đưa đi cất giấu bớt nhằm tránh bị xử lý nặng; các bị cáo thống nhất nhờ Phạm Đức T (là con của Phạm S) đưa xe lôi vào hiện trường để chở gỗ đi cất giấu, bị cáo Phạm S là người trực tiếp liên hệ với Phạm Đức T và nói “hồi chiều cậu và ba bị xã Q bắt gỗ, con coi đánh xe đem vô cất bớt”, T trả lời “dạ”. Khoảng 20 giờ ngày 24/11/2022, Phạn S1, Võ Văn L3 và Nguyễn Hữu H1 vào lại khu vực hiện trường nơi gỗ bị tạm giữ khi chiều rồi tiến hành đưa gỗ từ hiện trường ra vị trí mà xe của T có thể vào được. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T điều khiển xe lôi của T đi và đến khu vực có gỗ mà S1, L3 và Hữu H1 đã chuyển đến. Tại đây, các bị cáo S1, L3, Hữu H1 cùng với T bốc gỗ lên xe của T để T chở gỗ đến khu vực bãi thải Mỏ than N (Thuộc Tổ Dân phố N, thị trấn T, huyện N) để cất giấu. Tuy nhiên, tại khu vực bãi thải không có chỗ cất giấu nên các bị cáo lại nhờ T chở đi bán giúp. T đồng ý và gọi điện thoại cho Nguyễn Hồng H2 nói là nhờ H2 chở củi đi bán giúp. H2 đồng ý. Sau đó, Nguyễn Hồng H2 đưa xe tải của mình, có Biển kiểm soát số 92C - 151.73 đến Khu vực bãi thải của Mỏ than N để S1, L3, Hữu H1 và T chuyển gỗ qua xe của H1. T điện thoại cho Nguyễn Hiếu NI, sinh năm 1985; trú tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Q để nói về việc bán gỗ và được N1 đưa số điện thoại của Nguyễn Đăng M (sinh năm 1978, trú tại: xã Đ, huyện Đ, tỉnh Q) cho T để T liên hệ bán gỗ. T liên hệ thì được M đồng ý mua và T lại đưa số điện thoại của Nguyễn Đăng M cho Nguyễn Hồng H2 để H2 liên hệ bán gỗ; sau đó, H2 chở gỗ đến xưởng của ông Nguyễn C và bà Nguyễn Thị Ngọc K (ở xã Đ, huyện Đ) theo hướng dẫn của M để bán gỗ cho M với giá 13.400.000 đồng. Ngày 25/11/2022, Tổ công tác tiến hành xác minh và thu giữ tại xưởng gỗ của ông Nguyễn C 39 khúc gỗ (kích thước, ký hiệu các khúc gỗ phù hợp với các khúc gỗ bị tạm giữ vào ngày 24/11/2022); 09 khúc gỗ còn lại không thu giữ được.

Theo yêu cầu định giá tài sản số 01/YC-CSĐT ngày 22/12/2022, về việc xác định giá trị tài sản bị thiệt hại của 48 khúc gỗ theo bản kê đính kèm, có cả 09 khúc gỗ bị mất, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N xác định: Giá trị thiệt hại về lâm sản của 48 khúc gỗ (gồm cả 09 khúc không thu giữ được) là 7.026.933 đồng (Tại bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-ĐGTS ngày 17/01/2023) Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện N thu giữ và chuyển cho Hạt Kiểm lâm huyện N bảo quản 39 (Ba mươi chín) khúc gỗ tròn, chủng loại gỗ chuồn, nhóm III, khối lượng 1.869 m3.

Quá trình giải quyết vụ án, xét thấy có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Tòa án đã trả hồ sơ vụ án để yêu cầu điều tra bổ sung một số vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn không chấp nhận điều tra bổ sung theo các yêu cầu của Tòa án, giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng số 05/CT-VKSNS ngày 25/5/2023 và đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Tại Cáo trạng số 05/CT - VKSNS ngày 25/5/2023, Viện trưởng Viện KSND huyện N truy tố các bị can Phạm Sanh, Võ Văn L3, Nguyễn Hữu H1 và Phạm Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Về dân sự, đề nghị trả lại cho UBND xã Q 39 khúc gỗ bị thu giữ và buộc các bị can bồi thường thiệt hại đối với 09 khúc gỗ bị mất trong khi vận chuyển đi bán và hiện tại không thu giữ được; đề nghị tuyên trả lại cho bà Nguyễn Thị Ngọc K số tiền 13.400.000 đồng.

Theo yêu cầu của Tòa án, tại văn bản số 01/ĐGTTHS ngày 06/9/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N xác định: “Tổng giá trị thiệt hại rừng theo yêu cầu định giá là 7.026.933 đồng” được ghi nhận trong Kết luận định giá tài sản số 05/K1-ĐGTS ngày 17/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N là giá trị thị trường của 48 khúc gỗ theo bản kê lâm sản kèm theo yêu cầu định giá của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện N tại thời điểm ngày 24/11/2022 và giá trị thị trường (tại thời điểm ngày 24/11/2022) của 09 khúc gỗ bị mất (gồm các khúc: L2, L3, L25, L37, L39, L41, L46, L48 và L49) là 1.451.870 đồng.

Với nội dung vụ án như trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2023/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Q đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo: Phạm S, Võ Văn L3, Nguyễn Hữu H1 và Phạm Đức T đã phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Phạm Đức T 12 (Mười hai) tháng, được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam (từ ngày 14/02/2023 đến ngày 07/4/2023) là 52 ngày, hình phạt tù còn lại mà bị cáo T phải chấp hành là 10 tháng 08 ngày; thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

- Xử phạt bị cáo Phạm S 08 (T2) tháng, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H1 08 (T2) tháng, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

- Xử phạt bị cáo Vồ Văn L3 07 (Bảy) tháng, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Vào ngày 28/9/2023, các bị cáo Phạm S, Võ Văn L3, Nguyễn Hữu H1 và Phạm Đức T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phạm S, Võ Văn L3, Nguyễn Hữu H1 và Phạm Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật. Đồng thời, đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội; áp dụng đúng các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; xem xét nhân thân và vai trò để làm căn cứ xử phạt bị cáo Phạm Đức T 12 tháng tù ; Phạm Đức T 08 tháng tù; Nguyên Hữu HI 08 tháng tù và Võ Văn L3 07 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Phạm S, Võ Văn L3, Nguyễn Hữu H1 và Phạm Đức T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định theo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên kháng cáo của các bị cáo là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phạm S, Võ Văn L3, Nguyễn Hữu H1 và Phạm Đức T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản xác định hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ được Cơ quan điều tra chứng minh có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào đêm ngày 24/11/2022, các bị cáo Phạm S, Nguyễn Hữu H1, Võ Văn L3 và Phạm Đức T đã có sự trao đổi, bàn bạc và thống nhất nhờ Phạm Đức T đưa xe lôi của T vào khu vực hiện trường nơi gỗ bị tạm giữ để tẩu tán, đưa đi cất giấu và khi không cất giấu được thì thống nhất nhờ T bán giúp; với khối lượng là 52 khúc gỗ, loại gỗ chuồn, nhóm III mà các bị cáo S, L3 và Hữu H1 đã khai thác khoảng 03 ngày trước đó và đã bị cơ quan chức năng của UBND xã Q bắt giữ, lập biên bản tạm giữ vào ngày 24/11/2022. Tổng giá trị tài sản của 48 khúc gỗ mà các bị cáo đã trộm cắp được xác định bởi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N là 7.026.933 đồng, trong đó 09 khúc gỗ bị mất trong quá trình các bị cáo tổ chức đưa đi bán có giá trị là 1.451.870 đồng. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2023/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Q đã kết án các bị cáo Phạm S, Nguyễn Hữu H1, Võ Văn L3 và Phạm Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo phạm tội có tổ chức, hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, không những xâm phạm quyền sở hữu mà đối tượng tài sản các bị cáo trộm cắp là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính do các bị cáo gây ra, đang được xem xét, xử lý đã thể hiện thái độ coi thường pháp luật của các bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân, xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để làm căn cứ xử phạt bị cáo Phạm Đức T 12 tháng tù ; Phạm Đức T 08 tháng tù; Nguyễn Hữu H1 08 tháng tù và bị cáo Võ Văn L3 07 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật và không nặng. Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết giảm nhẹ mới phát sinh và xét mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với từng bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

[4] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Phạm S, Nguyễn Hữu H1, Võ Văn L3 và Phạm Đức T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm S, Nguyễn Hữu H1, Võ Văn L3 và Phạm Đức T, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Phạm Đức T 01 (Một) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án; nhưng được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam trước đó (từ ngày 14/02/2023 đến ngày 07/4/2023).

- Xử phạt bị cáo Phạm S 08 (T2) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H1 08 (T2) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Võ Văn L3 07 (B) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Các bị cáo đều bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Bị cáo Phạm S, Nguyễn Hữu H1, Võ Văn L3 và Phạm Đức T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 21/12/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 274/2023/HS-PT

Số hiệu:274/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về