Bản án về tội trộm cắp tài sản số 273/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 273/2021/HS-ST NGÀY 15/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15/11/2021, tại trụ sở TAND quận N, thành phố H, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 288/2021/TLST-HS ngày 26/10/2021 đối với bị cáo:

Lưu Tuấn A, sinh năm 1993; Giới tính: N Nơi ĐKNKTT: Khu A (khu 6 cũ), Tiên Lương, C, tỉnh P. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt N Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Lưu Viết T và bà Hà Thị O Tiền án: Có 01 tiền án Tại bản án số 59/2017/HSST ngày 12/11/2017 của TAND tỉnh B xử phạt 8 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 14/10/2019.

Tiền sự: Không Bị cáo đầu thú ngày 05/7/2021, tạm giữ ngày 06/7/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H. Số giam 4152A2/5 - Có mặt

Những người bị hại:

1. Trần Ngọc S, sinh năm 1975 – Vắng mặt Địa chỉ: Văn Hòa, Cát Thịnh, V, tỉnh Y

2. Lê Văn H, sinh năm 2000 – Vắng mặt Địa chỉ: Thôn Hòa, xã Hòa Tiến, huyện H, tỉnh T

3. Trần Văn N, sinh năm 1987 – Vắng mặt Địa chỉ: Thôn Hòa, xã Hòa Tiến, huyện H, tỉnh T 4. Phạm Xuân T, sinh năm 1977 – Vắng mặt

Địa chỉ: Khu 5, Yên Lương, Thanh S, tỉnh P

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Bị cáo bị VKSND quận N, thành phố H truy tố về hành vi phạm tội như sau: Bị cáo Lưu Tuấn A là đối tượng đang có tiền án về tội trộm cắp tài sản, lại không có việc làm, do không có tiền chi tiêu nên bị cáo đã đi lang thang khu vực quận Cầu Giấy, N, H xem nhà nào sơ hở thì trộm cắp tài sản bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Vào khoảng 0 giờ ngày 05/7/2021 bị cáo đi vào ngách 08/174 Lê Quang Đạo, phường Phú Đô, N, H thì phát hiện thấy 02 nhà số 38 và 42 liền kề nhau đang xây dựng. Bị cáo đã vào nhà số 42 thấy nhiều công nhân xây dựng đang ngủ ở phản, bên cạnh để nhiều điện thoại nên bị cáo đã lén lút trộm cắp của các anh: Trần Ngọc S 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xám; Lê Văn H 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu vàng; Anh Trần Văn N 01 điện thoại di động hiệu Samsung A32. Trộm xong nhà số 42 bị cáo sang tiếp nhà 38 cũng thấy công nhân xây dựng đang ngủ nên đã lén lút trộm cắp của anh Phạm Xuân T 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng trong ốp có 150.000đ; Chị Phùng Thị Lan 01 điện thoại di động hiệu Samsung A11 màu xanh trong ốp có 1.021.000đ. Trộm cắp xong chiếc điện thoại của chị Lan thì anh T tỉnh giấc phát hiện bị cáo nên đã hô hoán, sau đó bị cáo bị bắt giữ, tài sản trộm cắp được thu hồi toàn bộ và đã trả lại cho người bị hại.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 306/KLĐGTS ngày 05/77/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Cầu Giấy, H xác định: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xám trị giá 2.080.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu vàng trị giá 3.430.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A32 trị giá 4.850.000đ;

01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng trị giá 1.780.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A11 trị giá 2.024.000đ.

Tại bản cáo trạng số 274/CT-VKSNTL ngày 18/10/2021 của VKSND quận N, thành phố H đã truy tố bị cáo về tội “Tộm cắp tài sản” theo điểm khoản 1 Điều 173 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với các bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Đề nghị HĐXX Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

Đề nghị xử phạt: Lưu Tuấn A từ 18 đến 21 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 xe máy hiệu Honda Wave BKS 30K9-xxxx.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng số 274 ngày 18/10/2021 của VKSND quận N đã truy tố bị cáo. Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Những người bị hại đã được triệu tập hợp nhưng vắng mặt. Trong giai đoạn điều tra những người bị hại đã có lời khai thể hiện: Sau khi bắt giữ bị cáo, tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại đầy đủ. Những người bị hại không có ý kiến hay yêu cầu gì đối với bị cáo, đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, HĐXX nhận định: Trong khoảng thời gian từ 2 giờ ngày 05/7/2021 tại số nhà 38 và 42 ngách 08/174 Lê Quang Đạo, phường Phú Đô, N, H bị cáo đã lén lút trộm cắp 05 chiếc điện thoại di động cùng tiền mặt kẹp ở ốp điện thoại của các công nhân đang xây dựng hai ngôi nhà trên. Cụ thể bị cáo trộm cắp của: Trần Ngọc S 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xám; Lê Văn H 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu vàng; Anh Trần Văn N 01 điện thoại di động hiệu Samsung A32; Anh Phạm Xuân T 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng trong ốp có 150.000đ; Chị Phùng Thị Lan 01 điện thoại di động hiệu Samsung A11 màu xanh trong ốp có 1.021.000đ. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 15.335.000đ.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Xét cáo trạng truy tố và lời trình bày luận tội của đại diện VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng nơi xảy ra tội phạm.

Về nhân thân và tình tiết tăng nặng: Tính đến ngày phạm tội, bị cáo đang có 01 tiền án về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm; Ngoài ra, trong thời gian ngắn bị cáo còn liên tục trộm cắp tài sản trong hai hộ gia đình, mỗi lần trộm cắp đều đủ định lượng cấu thành tội phạm nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá tình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. HĐXX áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích và nhận định trên, xét cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo đã gây ra. Cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Đã được xử lý xong, tài sản đã được thu hồi ngay và trả lại cho những người bị hại, những người bị hại không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên HĐXX không xét.

Về xử lý vật chứng: 01 chiếc xe máy hiệu Honda Wave màu đỏ, đen, bạc BKS 30K9-xxxx là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện đi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Lưu Tuấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106, 136, 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Lưu Tuấn A 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/7/2021. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày Tuyên án để đảm bảo thi hành án. Về trách nhiệm dân sự: HĐXX không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đỏ, đen, bạc BKS 30K9-xxxx. (Đặc điểm vật chứng đúng như biên bản giao nhận vật chứng số 77 ngày 02/12/2020 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự quận N, H) Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án tổng hạn 15 ngày kể từ ngày Tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 273/2021/HS-ST

Số hiệu:273/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Bị cáo Lưu Tuấn A, sinh năm 1993, bị TAND quận N, thành phố H xét xử về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Bị cáo có tiền án về tội trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt 8 năm tù vào tháng 10/2019.

Vào khoảng 0 giờ ngày 05/7/2021, bị cáo đã đột nhập vào hai nhà đang xây dựng tại ngách 08/174 Lê Quang Đạo, phường Phú Đô, N, H. Tại đây, bị cáo đã trộm cắp 5 chiếc điện thoại di động và tiền mặt của các công nhân đang ngủ, với tổng giá trị tài sản là 15.335.000đ.

Bị cáo bị bắt quả tang và toàn bộ tài sản đã được thu hồi, trả lại cho người bị hại. Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Những người bị hại không có yêu cầu bồi thường.

HĐXX tuyên phạt bị cáo Lưu Tuấn A 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Tòa cũng ra quyết định tịch thu sung công quỹ 1 xe máy Honda Wave BKS 30K9-xxxx của bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội.