Bản án về tội trộm cắp tài sản số 272/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 272/2021/HS-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 264/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 268/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

ĐẶNG ANH S, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Số 2 Ngõ 35 đường L, phường N, quận Đ, thành phố Hà Nội; nơi ở: P508-B1, phường T, quận Đ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Tuấn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị B; chưa có vợ, con;

Tiền án:

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 335/2009/HSST ngày 14/9/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, chưa được xóa án tích.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2014/HSST ngày 09/01/2014 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, chưa được xóa án tích.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 229/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không. Nhân thân:

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 431/2005/HSST ngày 26/8/2005 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo thử thách 30 tháng về tội Cướp tài sản, khi phạm tội dưới 16 tuổi được coi là không có án tích;

+ Ngày 12/8/2008 bị Công an quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ không có giấy phép, đã đủ thời gian để để được coi như chưa bị xử lý hành chính;

+ Ngày 28/8/2012 bị Công an quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ đã đủ thời gian để để được coi như chưa bị xử lý hành chính.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam: Từ ngày 07/7/2021; hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Ngọc Tuấn A, sinh năm 1995; ĐKHKTT: thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Số nhà 36, Ngách 230, phường M, quận N, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Anh S không có nghề nghiệp, do không có tiền, S đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền ăn tiêu. Đầu tháng 7 năm 2021, S có quen biết một người nam giới tên “N” (chưa rõ nhân thân) và cả hai đã bàn bạc cùng đi trộm cắp tài sản. Khoảng 15 giờ ngày 07/7/2021, S và N gặp nhau tại phố V, phường T, quận Đ, thành phố Hà Nội, khi đó N đi xe máy Honda SH màu trắng, không rõ biển số, N và S rủ nhau vào khu vực quận Hà Đông xem có ai sơ hở thì trộm cắp. N đưa cho S 01 vam tay công hình chữ “L’” bằng kim loại để S sử dụng phá khóa ổ điện xe máy để trộm cắp. N điều khiển xe máy chở S đi vào khu vực quận Hà Đông. Khoảng 17 giờ cùng ngày, cả 2 đi đến trước cửa hàng “Bún Bò Huế 65”, địa chỉ: Số 02-LK6C, phường M, quận H thì N phát hiện có chiếc xe máy Honda SH màu đen, BKS: 88D1-X.93 của anh Nguyễn Ngọc Tuấn A dựng ở đường và anh Tuấn A đi vào trong cửa hàng để mua đồ ăn, không có ai trông giữ, xe mở khóa điện, đèn xi nhan vẫn sáng. N chở S đi lên trước xe này cách khoảng 1m và dừng lại. S xuống và đi lại gần xe máy BKS: 88D1-X.93 ngồi lên, gạt chân chống phụ, nổ máy và phóng xe đi, N cũng phóng xe theo hướng đường Nguyễn Văn Lộc đi Tố Hữu. Cùng lúc, anh Tuấn A phát hiện bị mất xe đã chạy đuổi theo, sau đó nhờ anh Vũ Thế Anh là người đi đường đang điều khiển xe máy chở đuổi theo S. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến ngã tư giao cắt giữa đường Trần Duy Hưng với đường Hoàng Minh Giám, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy thì anh Tuấn A phát hiện thấy Đặng Anh S đang đi xe máy của mình, anh Tuấn A đã chạy tới giữ xe và tri hô “cướp”. Thấy vậy, S quay đầu xe bỏ chạy nhưng va vào dải phân cách giữa đường, bị ngã và bị Tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông số 6 Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ bắt quả tang. Đối tượng N đi xe máy chạy đâu không rõ. Vật chứng thu giữ của Đặng Anh S là:

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH 125i màu đen, BKS: 88D1-X.95, số khung 7302KY041936, số máy JF73E0174419.

- 01 vam phá khóa bằng kim loại, gồm: 01 tay công hình chữ “L”, KT:

(14x5)cm; 01 đầu vam phá khóa có 01 đầu đập dẹt nhọn, đuôi hình lục giác.

- 01 chiếc điện thoại di động iphone X màu trắng, ốp màu đen.

- 01 chùm chìa khóa (gồm 01 chìa khóa xe máy smartkey, 01 chìa khóa bằng kim loại màu vàng và 01 dây xích bằng kim loại màu trắng).

Tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông số 6 đã bàn giao đối tượng Đặng Anh S cùng vật chứng cho Công an phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy giải quyết. Công an phường Trung Hòa đã lập biên bản bắt tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang đối với S đưa cùng vật chứng về trụ sở, sau đó bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy điều tra xử lý.

Ngày 08/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy có văn bản yêu cầu định giá tài sản đối với 01 xe máy thu giữ của Đặng Anh S. Tại Biên bản số 308/TCKH-BBĐGHĐ và Kết luận định giá tài sản số 308/TCKH- KLĐGHĐ ngày 08/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cầu Giấy, kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH 125i, màu đen, BKS: 88D1-X.93, SK: 7302KY041936, SM: JF73E0174419, đã qua sử dụng từ tháng 9/2019, trị giá: 64.117.000 đồng.

Ngày 08/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã chuyển hồ sơ, đối tượng và vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông để giải quyết theo thẩm quyền.

Trong giai đoạn điều tra, Đặng Anh S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 265/CT-VKS-HĐ ngày 20/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đặng Anh S về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại các điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, trong đơn xin vắng mặt không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội luận tội cho rằng tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận tội phù hợp các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên giữ nguyên nội dung truy tố. Hành vi của bị cáo xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an trên địa bàn. Bị cáo là thanh niên trong độ tuổi lao động, có sức khỏe, vì muốn có tiền tiêu sài nên mặc dù nhận thức được hành vi trái pháp luật vẫn trộm cắp chiếc xe máy trị giá 64.117.000 đồng. Về nhân thân, bị cáo nhiều lần bị xét xử, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Anh S từ 39 tháng đến 45 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên đề nghị không xét. Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 vam phá khóa bằng kim loại, gồm: 01 tay công hình chữ “L”, KT: (14x5)cm; 01 đầu vam phá khóa có 01 đầu đập dẹt nhọn, đuôi hình lục giác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông; Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

Về đánh giá chứng cứ trong vụ án: lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Anh S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Do cần tiền ăn tiêu, khoảng 15 giờ ngày 07/7/2021, Đặng Anh S và N (S không rõ nhân thân) gặp nhau tại phố V, phường T, quận Đ, thành phố Hà Nội rủ nhau đi trộm cắp tài sản. N điều khiển xe máy chở S đến khu vực quận Hà Đông. Khoảng 17 giờ cùng ngày, khi đến trước cửa hàng “Bún Bò Huế 65”, địa chỉ: Số 02-LK6C, phường M, quận H, phát hiện có chiếc xe máy Honda SH màu đen, BKS: 88D1-X.93 của anh Nguyễn Ngọc Tuấn A dựng ở đường không có ai trông giữ, xe mở khóa điện, đèn xi nhan vẫn sáng, N dừng xe, S xuống xe đến gần xe máy BKS: 88D1-X.93 ngồi lên phóng xe đi. Anh Tuấn A phát hiện mất xe đã đuổi theo S, khi đi đến ngã tư giao cắt giữa đường Trần Duy Hưng với đường Hoàng Minh Giám thuộc địa phận phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy thì bắt được S, thu giữ chiếc xe. N chạy thoát.

Bị cáo Đặng Anh S là người có nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, bị cáo lợi dụng sơ hở của anh Tuấn A trong việc quản lý tài sản đã lấy tài sản của anh Tuấn A. Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 64.117.000 đồng nên hành vi của bị cáo thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về nhân thân, theo hồ sơ vụ án, đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, ngoài 02 lần bị xử lý hành chính, đã nộp tiền phạt và đã đủ thời gian để để được coi như chưa bị xử lý hành chính, bị cáo đã 04 lần bị kết án:

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 431/2005/HSST ngày 26/8/2005 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo thử thách 30 tháng về tội Cướp tài sản, khi phạm tội dưới 16 tuổi nên được coi là không có án tích theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 335/2009/HSST ngày 14/9/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2011.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2014/HSST ngày 09/01/2014 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/8/2015.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 229/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Cướp giật tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (tình tiết “Tái phạm nguy hiểm”), bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/9/2019, nộp tiền án phí ngày 01/8/2017.

Bản án hình sự sơ thẩm số 229/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Áp dụng các điều 53 và 70 của Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời, áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 73 của Bộ luật Hình sự năm 2015 về cách tính thời hạn xóa án tích, Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2014/HSST ngày 09/01/2014 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa và Bản án hình sự sơ thẩm số 335/2009/HSST ngày 14/9/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội bị cáo đều chưa được xóa án tích.

Bị cáo trộm cắp chiếc xe máy trị giá 64.117.000 đồng, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo các điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và các tình tiết có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: hành vi của bị cáo thể hiện sự táo tợn, trộm cắp tài sản có giá trị lớn; bị cáo là thanh niên có sức khỏe nhưng lười lao động mà liên tục phạm tội để có tiền thỏa mãn nhu cầu cá nhân, cần xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét bị cáo có nhân thân rất xấu, nhiều lần bị đưa ra xét xử nhưng không lấy làm bài học cải tạo bản thân, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo nói riêng, phòng ngừa tội phạm nói chung.

Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe máy đã được thu hồi trả bị hại, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ của Đặng Anh S chưa được Cơ quan điều tra xử lý là: 01 tay công bằng kim loại hình chữ “L”, kích thước (14x5)cm; 01 đầu vam phá khóa có 01 đầu đập dẹt nhọn, đuôi hình lục giác, là công cụ bị cáo mang theo người nhằm sử dụng vào việc trộm cắp tài sản, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giữ, tạm giam được tính trừ một ngày tù; bị cáo bị bắt quả tang hành vi phạm tội lúc 17 giờ 30 phút ngày 07/7/2021 nên tính thời gian tạm giữ ngày 07/7/2021 để bảo đảm quyền lợi cho bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Anh S phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng các điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Anh S 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/7/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe máy đã được thu hồi trả bị hại, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy:

+ 01 tay công bằng kim loại hình chữ “L”, kích thước (14x5)cm;

+ 01 đầu vam phá khóa có 01 đầu đập dẹt nhọn, đuôi hình lục giác.

Số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đặng Anh S phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/11/2021; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn) nơi bị hại cư trú, hoặc nơi cư trú cuối cùng.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 272/2021/HS-ST

Số hiệu:272/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về