Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2024/HS-ST NGÀY 06/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2024/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HS ngày 24/01/2024 đối với bị cáo:

NGÔ VĂN D, sinh năm 2003. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Nơi thường trú: Thôn Đa H, xã Hợp T, huyện Hiệp Hoà, Bắc Giang. Chỗ ở: Thôn Đa H, xã Hợp T, huyện Hiệp Hoà, Bắc Giang. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Học vấn: 12/12. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Bố là: Ngô Văn T, sinh 1979. Mẹ là: Ngô Thị S, sinh 1982. TATS: Không.

Bị cáo hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại: Anh Phạm Chí T - Sinh năm: 1982 Địa chỉ: Tổ 2, thị trấn Đ, huyện Đ, TP Hà Nội (Có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12h06’ ngày 06/11/2023 tại Tổ 02, Thị Trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội, Ngô Văn D có hành vi đứng cảnh giới cho đồng phạm vào thực hiện hành vi phá khoá trộm cắp chiếc xe máy Honda Wave, sơn màu trắng bạc, BKS: 29S2 - 197.xx có trị giá 15.000.000 đồng của anh Phạm Chí T nhưng chưa kịp đem xe ra khỏi vị trí thì bị vợ chồng anh T phát hiện hô hoán cùng nhân dân bắt quả tang D, đối tượng đồng phạm chạy thoát.

Quá trình điều tra xác định:

Khoảng 08h30’ ngày 06/11/2023, anh Phạm Chí T chủ cửa hiệu kính thuốc Hồng Thái thuộc Tổ 02, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội dựng 01 chiếc xe máy Honda Wave, sơn màu trắng bạc, BKS: 29S2 - 197.xx, số máy JA39E3036397, số khung RLHJA3922PY422984 trên vỉa hè đường Phúc Lộc trước cửa hiệu, đầu xe hướng ra lòng đường, khóa cổ xe rồi lên tầng 02 sinh hoạt. Khoảng 12h06’ cùng ngày, anh T đang ăn cơm cùng chị Lê Thị Thúy K, sinh năm 1988 vợ anh T, thì cả hai quan sát qua camera an ninh của cửa hàng phát hiện có 01 nam giới mặc áo chống nắng, đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang tiếp cận xe của anh T, có dấu hiệu cậy phá ổ khóa điện của xe. Thấy vậy anh T cùng vợ lao xuống, hô hoán và đuổi bắt đối tượng trộm cắp. Bị phát hiện, nam giới trộm cắp bỏ chạy ra phía đường Cao Lỗ, ngồi lên sau xe của Ngô Văn D chờ sẵn ở đầu đường. D phóng xe được khoảng 10m thì bị đổ xe ra đường, D bị anh T cùng quần chúng nhân dân bắt giữ và bàn giao cho Công an Thị Trấn Đ. Còn nam giới trộm cắp bỏ chạy vào trong thôn Phan X tẩu thoát. Công an Thị Trấn Đ đã lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang rồi đưa D cùng tang vật về trụ sở làm rõ.

Vật chứng tạm giữ:

- Tạm giữ của anh Phạm Chí T:

+ 01 xe máy Honda Wave, sơn màu trắng bạc, BKS: 29S2 - 197.xx, số máy JA39E3036397, số khung RLHJA3922PY422984;

+ 01 USB bên trong chứa 05 video có liên quan đến vụ việc; Tạm giữ của Ngô Văn D:

+ 01 xe máy Honda Wave, sơn màu xanh đen bạc, BKS: 98D1 - 896.xx, số máy: 2368636, số khung: 248847;

+ 01 CCCD số 02420xx16010 mang tên Ngô Văn D;

+ 01 Giấy đăng ký xe số 007182 mang tên Ngô Văn D;

+ 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số 24022900xx38 mang tên Ngô Văn D;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Tecno Pova, vỏ màu xanh, số Imei: 357460380171780, lắp sim 03864xx905.

Kết luận định giá tài sản số 224 ngày 08/11/2023 Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Đ kết luận:

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng bạc, BKS: 29S2 - 197.xx có trị giá 15.000.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra Ngô Văn D khai nhận: D và Nguyễn Hữu N, sinh năm:

1995; trú tại: thôn Xuân D, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội cùng là nhân viên của Công ty Cổ phần giao hàng tiết kiệm có trụ sở tại Khối 13, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Khoảng 21 giờ ngày 05/11/2023, N rủ D đi trộm cắp xe máy và hứa trả công cao cho D. D đồng ý. Đến khoảng 07 giờ ngày 06/11/2023, D điều khiển xe máy Honda Wave, sơn màu xanh đen bạc, BKS: 98D1 - 896.xx đến khu vực xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội đón N như đã hẹn. Sau đó N điều khiển xe máy chở D đến thị trấn Đ, Đ, Hà Nội để trộm cắp xe máy. Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi đi đến quán kính thuốc Hồng Thái thuộc Tổ 2, Thị Trấn Đ, N phát hiện xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 29S2-197.xx của anh T dựng trên vỉa hè không có người trông giữ. N dừng xe ở đầu đường Phúc Lộc giao với đường Cao Lỗ, cách xe máy của anh T khoảng 10m, đầu xe hướng về ngã tư thị trấn Đ để D ngồi trên xe cảnh giới còn N đi bộ tiếp cận chiếc xe. N lấy từ túi đeo chéo trên người ra 01 bộ vam phá khóa hình chữ “I” (do N tự chuẩn bị) để phá khóa điện xe. Khi N đang phá khóa xe thì bị anh T phát hiện, lao từ trong quán ra hô hoán, đuổi bắt. Bị phát hiện, N chạy về phía D, ngồi sau xe rồi D tăng ga bỏ chạy. Do tăng ga đột ngột nên đi được khoảng 10m thì xe tự đổ ra đường. D bị anh T cùng quần chúng nhân dân bắt giữ còn N bỏ chạy vào trong thôn Phan X, xã Uy Nỗ tẩu thoát.

Tai Cáo trạng số: 16/CT-VKS-ĐA ngày 23/01/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố Ngô Văn D về tội: Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Ngô Văn D đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo vi phạm vào khoản 1 Điều 173 BLHS.

Về hình phạt: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo D mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng đến 24 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Đề nghị trả lại bị cáo D: 01 xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc, BKS: 98D1-896.xx đăng ký xe mang tên Ngô Văn D; 01 điện thoại di động Tecno Pova, vỏ màu xanh, lắp sim 03864xx905 và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 98007182 ngày 10/12/2021 do công an huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang cấp cho Ngô Văn D.

Về dân sự: Anh Phạm Chí T đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu bồi thường gì về dân sự, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ngô Văn D.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12h06’ ngày 06/11/2023 tại Tổ 02, Thị Trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội, Ngô Văn D có hành vi đứng cảnh giới cho đồng phạm vào thực hiện hành vi phá khoá trộm cắp chiếc xe máy Honda Wave, sơn màu trắng bạc, BKS: 29S2 - 197.xx có trị giá 15.000.000 đồng.

[3] Hành vi của bị cáo Ngô Văn D đã phạm tội Trộm cắp tài sản tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được Bộ luật Hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, vì vậy cần phải có một hình phạt tương xứng phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện.

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS của bị cáo: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nên bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, ông nội bị cáo là người có công với cách mạng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét về hành vi, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm của bị cáo có mức độ, tài sản đã được thu hồi trả cho bị hại, không có tình tiết tăng nặng TNHS, có nơi cư trú rõ ràng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, ông nội bị cáo là người có công với cách mạng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo có hiệu lực kể từ ngày 10/5/2022 thì bị cáo có đủ điều kiện để hưởng án treo nên HĐXX để bị cáo được hưởng án treo, cho cải tạo bên ngoài xã hội cũng như đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Đại diện VKS đề nghị mức hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của HĐXX.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là anh Phạm Chí T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên không xét.

[8] Về tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Đối với 01 xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc, BKS: 98D1-896.xx đăng ký xe mang tên Ngô Văn D, tiền mua xe của gia đình bị cáo mua cho bị cáo đứng tên để làm phương tiện đi làm, gia đình và bị cáo có nguyện vọng xin lại tài sản nên trả lại cho bị cáo là phù hợp với đề nghị của VKS và quy định pháp luật.

Đối với 01 điện thoại di động Tecno Pova, vỏ màu xanh, lắp sim 03864xx905 không dùng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 98007182 ngày 10/12/2021 do công an huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang cấp cho Ngô Văn D nên trả lại cho bị cáo.

[9] Đối với Nguyễn Hữu N, sinh năm: 1995; trú tại: xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập Nguyễn Hữu N tuy nhiên N hiện vắng mặt tại địa phương, không xác định được đi đâu, làm gì. Vì vậy ngoài lời khai của D ra không có tài liệu nào khác chứng minh N là người đã cùng D trộm cắp chiếc xe máy của anh T. Ngày 08/01/2024 Cơ quan điều tra đã tách rút tài liệu liên quan đến Nguyễn Hữu N để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, mong HĐXX cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 01/2022/NQ – HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

Tuyên bố bị cáo Ngô Văn D phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt: bị cáo Ngô Văn D 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo D cho UBND xã Hợp T, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản không yêu cầu gì về dân nên không xét.

3. Về tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Trả lại bị cáo D: 01 xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc, BKS: 98D1- 896.xx, số máy: 2368636, số khung: 248847; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Tecno Pova, vỏ màu xanh, số Imei 357460380171780, lắp sim 03864xx905.

(Tang vật có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 24/01/2024).

Trả bị cáo D 01 Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 98007182 ngày 10/12/2021 do công an huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang cấp cho Ngô Văn D.

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2024/HS-ST

Số hiệu:27/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về