TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH G
BẢN ÁN 27/2023/HS-ST NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 7 năm 2023 tại Điểm cầu trung tâm: Hội trường xét xử Toa an nhân dân huyên Đ, tinh G. Điểm cầu thành phần: Hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G. Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023; Quyết điṇ h hoãn phiên tòa số 23/2023/HSST-QĐ, ngay 09 thang 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn L; sinh năm 1986 tại G. Nơi cư trú: Thôn A Dơk Kông, xã A Dơk, huyện Đ, tỉnh G; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Trường và bà Trương Thị Luyến; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: 01: Năm 2008 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại huyện Chư Sê, tỉnh G và bị khởi tố, truy nã. Năm 2017, bị bắt theo Lệnh truy nã, đến ngày 21/9/2017 bị Toà án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh G xét xử sơ thẩm (Bản án số 63/2017/HSST) và ngày 21/11/2017, Toà án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm, tuyên phạt 06 tháng tù tại Bản án số 80/2017/HS- PT (chưa được xoá án tích); tiền sự: Không;
Năm 2019, thực hiện hành vi đặt người khác làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ngày 29/10/2019, ngày 14/01/2020, sử dụng các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 29/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra Quyết định khởi tố, sau đó quyết định truy nã. Ngày 15/11/2022, bị cáo bị bắt, tạm giữ và tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
Anh Phạm Như TH, sinh năm 1986. Địa chỉ: Tổ 10, phường Hoa Lư, thành phố PL, tỉnh G. Vắng mặt.
Anh Nguyễn Đình P, sinh năm 1982. Địa chỉ: Tổ 01, phường Thắng Lợi, thành phố PL, tỉnh G. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Phòng Công chứng số 01, tỉnh G. Địa chỉ: 46 Lê Thánh Tôn, phường I, thành phố PL, tỉnh G. Vắng mặt.
Văn phòng công chứng Đặng Minh K. Địa chỉ: 674 Phạm Văn Đồng, phường Yên Thế, thành phố PL, tỉnh G. Vắng mặt.
- Người làm chứng:
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh G chi nhánh huyện Đ. Địa chỉ: 156 Nguyễn Huệ, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác: Không.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo cac tai liêu co trong hồ sơ vu an va diễn biến tai phiên toa, nôi dung vu an đươc tom tắt như sau:
Ngày 24/02/2020, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh G chi nhánh huyện Đ (Văn phòng đăng ký đất đai Đ) tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng đất của Nguyễn Văn L chuyển nhượng cho anh Phạm Như TH. Thửa đất mà L chuyển nhượng cho anh TH thuộc thửa số 105, tờ bản đồ số 31, diện tích 1264,8m2 tại thôn Blo, xã A Dơk, huyện Đ, tỉnh G. Sau khi tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng, Văn phòng đăng ký đất đai Đ kiểm tra, thẩm định và phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ) số CN372683 mang tên Nguyễn Văn L có dấu hiệu bị làm giả. Ngày 28/02/2020, Văn phòng đăng ký đất đai Đ đã trình báo vụ việc đến Công an huyện Đ để đề nghị điều tra, xử lý. Đồng thời, anh TH cũng làm đơn tố cáo Nguyễn Văn L với nội dung qua mối quan hệ quen biết nên cuối năm 2019, Nguyễn Văn L có đến gặp anh Phạm Như TH để vay số tiền 300.000.000 đồng. Lúc này L nói có 01 Giấy CNQSDĐ vườn cà phê đang cầm cố, thế chấp tại tiệm cầm đồ trên đường Lê Duẩn, thành phố PL với số tiền 150.000.000 đồng. Do tin tưởng nên anh TH đã đưa cho L số tiền 150.000.000 đồng để L đi lấy Giấy CNQSDĐ đang cầm cố. Ngày 29/10/2019, Nguyễn Văn L mang 01 Giấy CNQSDĐ giả và cùng anh TH đi đến Văn phòng Công chứng Đặng Minh Khanh tại số 674 Phạm Văn Đồng, thành phố PL, tỉnh G để lập hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa đất như thoả TH nêu trên. Đến ngày 30/10/2019, Nguyễn Văn L đến nhà anh TH để nhận thêm số tiền 150.000.000 đồng còn lại và hai bên viết 01 Giấy mượn tiền với nội dung L mượn của anh TH số tiền 300.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, thanh toán từng tháng và chậm nhất là 02 tháng. Nếu không đúng như thoả TH thì anh TH có quyền làm thủ tục sang tên mảnh đất của L. Tuy nhiên, sau đó L đã bỏ đi khỏi địa phương và điện thoại di động không liên lạc được nên anh TH mang Giấy CNQSDĐ cùng hợp đồng chuyển nhượng đến Văn phòng đăng ký đất đai Đ để làm thủ tục thì phát hiện Giấy CNQSDĐ mà Nguyễn Văn L giao là giả.
Bên cạnh đó, ngày 03/3/2020, anh Nguyễn Đình P có đơn trình báo đến Công an huyện Đ với nội dung: Ngày 14/01/2020, anh P và Nguyễn Văn L có thỏa TH về việc chuyển nhượng đất. Theo đó, L chuyển nhượng cho anh P thửa đất số 105, tờ bản đồ số 31, diện tích 1264,8m2 tại thôn Blo, xã A Dơk, huyện Đ, tỉnh G. Toàn bộ diện tích đất đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh G cấp Giấy CNQSDĐ số CN372683 ngày 07/9/2018 mang tên Nguyễn Văn L. Hai bên thỏa TH giá trị chuyển nhượng lô trất trên là 160.000.000 đồng và trong ngày 14/01/2020, hai bên đã đến Phòng Công chứng số 1 tỉnh G để lập Hợp đồng ủy quyền về việc anh P có quyền quản lý, sử dụng, chuyển nhượng đối với thửa đất này và L đã giao Giấy CNQSDĐ số CN372683 cho anh P. Làm xong thủ tục hợp đồng, Nguyễn Văn L cùng đi về nhà anh P để nhận tiền và anh P đã giao cho L 20.000.000 đồng triệu đồng tiền mặt, đồng thời chuyển vào tài khoản Ngân hàng của L số tiền 130.000.000 đồng. Hai bên có lập Giấy thoả TH giao nhận tiền đặt cọc mua bán đất với số tiền là 150.000.000 đồng. Sau đó, vợ chồng anh P đến Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ để xác minh thửa đất thì được thông báo Giấy CNQSDĐ số CN 372683 ngày 07/9/2018 mang tên Nguyễn Văn L có dấu hiệu bị làm giả.
Ngày 29/04/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G đã có Kết luận Giám định số 363/KLGĐ với nội dung:
+ 02 (hai) phôi “GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN TRÊN ĐẤT”, số CN 372683 mẫu cần giám định (ký hiệu A1, A2) là giả.
+ Chữ ký đứng tên “Lương Thanh Bình” trên các “GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN TRÊN ĐẤT” số CN 372683 (mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2) so với chữ ký, chữ viết của Lương Thanh Bình trên các mẫu so sánh (ký hiệu từ M3 đến M7) là không phải do cùng một người ký ra.
+ Hình dấu tròn có nội dung “CỘNG HÒA X.H.C.N VIỆT NAM – TỈNH G – SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG” trên các “GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN TRÊN ĐẤT” (mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2) so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên các mẫu so sánh (ký hiệu từ M3 đến M7) là không phải do cùng một con dấu đóng ra.
Kết quả điều tra xác định: Nguyễn Văn L được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh G cấp Giấy CNQSDĐ số CN372683 ngày 07/9/2018 đối với thửa đất số 105, tờ bản đồ số 31, diện tích 1264,8m2 tại thôn Blo, xã A Dơk, huyện Đ, tỉnh G. Ngày 28/9/2018, Nguyễn Văn L đã thoả TH và làm thủ tục uỷ quyền sử dụng, thế chấp đối với thửa đất này cho Đoàn Vĩnh Hoàng (sinh năm 1992, trú tại phường Ia Kring, thành phố PL, tỉnh G), đồng thời đã giao Giấy CNQSDĐ này cho Hoàng. Đến năm 2019, Nguyễn Văn L đã vào mạng Internet để tìm người làm Giấy CNQSDĐ giả. Sau khi tìm được người nhận làm Giấy CNQSDĐ giả, L đã chuyển tiền qua tài khoản Ngân hàng cho người này, đồng thời chụp ảnh lại bản photocoppy Giấy CNQSDĐ thật của L (đã giao cho Hoàng) gửi qua ứng dụng Facebook cho người này để đặt làm giả 02 Giấy CNQSDĐ. Tuy nhiên, do thời gian đã lâu nên L không nhớ được đã chuyển khoản qua Ngân hàng nào và chiếc điện thoại mà L sử dụng đã bị mất nên L không nhớ được địa chỉ Facebook đã sử dụng để liên lạc với người nhận làm giấy tờ giả. Sau khi làm xong Giấy CNQSDĐ giả, người này đã gửi cho Nguyễn Văn L bằng đường xe ô tô khách và liên lạc qua số điện thoại di động mà L cung cấp. Nguyễn Văn L đã sử dụng 02 Giấy CNQSDĐ giả này để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của anh Phạm Như TH và anh Nguyễn Đình P như đã nêu trên.
Quá trình điều tra và truy tố Nguyễn Văn L chỉ thừa nhận có nhận của anh Nguyễn Đình P số tiền là 70.000.000 đồng và nhận của anh Phạm Như TH số tiền 120.000.000 đồng. Tuy nhiên, bằng các chứng cứ đã thu thập được, có đủ căn cứ xác định Nguyễn Văn L đã sử dụng Giấy CNQSDĐ giả (số CN 372683) để ký hợp đồng chuyển nhượng cho anh Phạm Như TH và ký hợp đồng ủy quyền cho anh Nguyễn Đình P được toàn quyền quản lý, sử dụng, chuyển nhượng đối với lô đất này để chiếm đoạt tổng số tiền 450.000.000 đồng. Để có được các Giấy CNQSDĐ giả (số CN372683) mang đi lừa người bị hại để lấy tiền, bị cáo Nguyễn Văn L đã đặt người khác làm tương tự như hình ảnh bản phoyocopy Giấy CNQSDĐ thật do bị cáo cung cấp. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã bỏ đi khởi nơi cư trú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã quyết định truy nã và đến ngày 15/11/2022 mới bắt giữ được bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo L thừa nhận có nhận của anh Nguyễn Đình P số tiền là 150.000.000 đồng và nhận của anh Phạm Như TH số tiền 300.000.000 đồng như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ.
* Về dân sự: Bị hại Phạm Như TH yêu cầu bị cáo L hoàn trả số tiền 300.000.000 đồng và anh Nguyễn Đình P yêu cầu bị cáo L hoàn trả số tiền 150.000.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số: 12/CT-VKS ngày 27 tháng 2 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh G truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Nguyễn Văn L và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về hình sự:
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 09 (chín) năm đến 10 (mười) năm tù.
Đề nghị áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 03 (ba) năm 6 (sáu) tháng đến 4 (bốn) năm tù.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt của hai tội từ 12 (mười hai) năm 6 (sáu) tháng đến 14 (mười bốn) năm tù.
Về dân sự:
Đề nghị áp dụng Điều 584; Điều 586 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải bồi thường cho bị hại Phạm Như TH số tiền 300.000.000 đồng và bị hại Nguyễn Đình P số tiền 150.000.000 đồng.
Về an phi: Bị cao Nguyễn Văn L phai chiụ 200.000đồng an phi hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm là 22.000.000 đồng.
Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Văn L chỉ thừa nhận có nhận của anh Nguyễn Đình P số tiền là 70.000.000 đồng và nhận của anh Phạm Như TH số tiền 120.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L đồng ý với quyết định truy tố và bản luận tội của Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án.
Căn cứ vào các tình tiết, chứng cứ nêu trên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội cua bi c̣ ao và hình phạt:
Khoảng cuối năm 2019, L tìm trên mạng internet và cung cấp hình ảnh chụp lại bản photocopy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật số CN 372683 mang tên Nguyễn Văn L đối với thửa đất số 105, tờ bản đồ số 31, có diện tích 1264,8m2 và địa chỉ thuộc thôn Blo, xã A Dơk, huyện Đ, tỉnh G mà L đã bán cho người khác để thuê một đối tượng trên mạng xã hội facebook (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) làm giả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tương tự. Đến ngày 29/10/2019, Nguyễn Văn L đã sử dụng 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để lập hợp đồng chuyển nhượng đối với anh Phạm Như TH để lấy số tiền 300.000.000 đồng. Ngày 14/01/2020, Nguyễn Văn L tiếp tục sử dụng 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả còn lại lập hợp đồng uỷ quyền đối với anh Nguyễn Đình P để lấy số tiền 150.000.000 đồng rồi bỏ đi khỏi nơi cư trú.
Hành vi sử dụng 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác với tổng số tiền 450.000.000 đồng nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn L là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Hành vi đó của bị cáo Nguyễn Văn L đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự và hành vi đặt người khác làm giả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi sử dụng 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 450.000.000 đồng của người khác do bị cáo Nguyễn Văn L thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước, trật tự trị an xã hội tại địa phương. Hành vi đó của bị cáo Nguyễn Văn L đã phạm vào tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy phải áp dụng cho bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
Đối với các Công chứng viên thuộc Văn phòng Công chứng Đặng Minh Khanh tại số 674 Phạm Văn Đồng, thành phố PL, tỉnh G và Phòng Công chứng số 1 tỉnh G tại số 46 Lê Thánh Tôn, phường Ia Kring, thành phố PL, tỉnh G đã chứng thực xác nhận các hợp đồng chuyển nhượng đất và hợp đồng uỷ quyền giữa bị cáo Nguyễn Văn L với những người bị hại Phạm Như TH, Nguyễn Đình P. Tuy nhiên, các Công chứng viên hoàn toàn không biết các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Nguyễn Văn L mang đến để giao dịch là giả nên không có căn cứ để điều tra, xử lý là phù hợp.
Đối với đối tượng làm giả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Nguyễn Văn L đặt làm trên mạng xã hội internet, Nguyễn Văn L không nhớ được đã chuyển khoản qua Ngân hàng nào và chiếc điện thoại mà L sử dụng đã bị mất nên L không nhớ được địa chỉ Facebook đã sử dụng để liên lạc với người nhận làm giấy tờ giả, nên chưa có đủ căn cứ khởi tố đối tượng này về hành vi Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong vụ án này. Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tiếp tục điều tra để xử lý đối tượng theo đúng quy định pháp luật.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tinh tiết tăng năng trach nhiêm hinh sư: Bị cáo hai lần thực hiện hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Ngoài ra, bị cáo đang có một tiền án chưa được xoá án tích nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm” theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với cả hai tội.
- Về nhân thân, tinh tiết giam nhe trach nhiêm hinh sư: Trong quá trình điều tra và truy tố bị cáo không thừa nhận chỉ thừa nhận có nhận của anh Nguyễn Đình P số tiền là 70.000.000 đồng và nhận của anh Phạm Như TH số tiền 120.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo L thành khẩn khai báo thừa nhận có nhận của anh Nguyễn Đình P số tiền là 150.000.000 đồng và nhận của anh Phạm Như TH số tiền 300.000.000 đồng như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ và ăn năn hối cải với hành vi của bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với cả hai tội là phù hợp.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Như TH yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 300.000.000 đồng và anh Nguyễn Đình P yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 150.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường số tiền này cho bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của các bị hại là phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;
- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;
- Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự;
- Căn cứ Điều 584; 586; 589 của Bộ luật Dân sự;
- Căn Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh:
Tuyên bố bi ̣cao Nguyễn Văn L pham tôi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
2. Về hình phạt: Xư phat:
Bị cáo Nguyễn Văn L 09 (chín) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Bị cáo Nguyễn Văn L 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Tổng hợp hình phạt của hai tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo Nguyễn Văn L phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 13 (mười ba) năm tù. Thơi han tu tinh tư ngày bị bắt, tạm giữ và tạm giam (ngày 15/11/2022).
3. Về dân sự:
Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải bồi thường cho bị hại Phạm Như TH số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) và anh Nguyễn Đình P số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về an phi:
Xử buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng).
5. Về quyền khang cao:
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngay 12/7/2023), bi ̣cáo và bị hại P có quyền kháng cáo ban an để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Đối với bị hại TH và và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng măt tai phiên toa có quyền kháng cáo ban an trong thơi han 15 ngay kê tư ngay nhân ban an hoăc đươc niêm yết hơp lê.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2023/HS-ST
Số hiệu: | 27/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đăk Đoa - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về