Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 28/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số : 28/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Huỳnh Q, tên gọi khác: Không, sinh ngày 24/3/1970 tại huyện T, tỉnh B; nơi cư trú: Thôn C, xã P, huyện V, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn N (đã chết), con bà Nguyễn Thị C (đã chết); vợ, con: Không; anh chị em ruột: có 02 người; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tháng 12/1994, bị TAND thị xã Buôn Mê Thuộc xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tháng 8/1995, bị TAND tỉnh Phú Yên xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 26/8/1996, bị TAND tỉnh Bình Định xử phạt 08 năm 09 tháng tù về các tội “ Trộm cắp tài sản, trốn khỏi nơi giam và Hủy hoại tài sản”; ngày 25/4/2005, bị TAND tỉnh Bình Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong các bản án. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định “có mặt”.

- Bị hại: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Đ - Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc Công ty.

Địa chỉ: Số 85 H, phường N, thành phố Đ, tỉnh Q.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Trần Q, sinh năm 1972 - Thủ kho kiêm bảo vệ công trình.

Nơi cư trú: Xóm 12, xã D, huyện D, tỉnh N. Nơi tạm trú: Thôn A, xã C, huyện V, tỉnh B.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn A, xã C, huyện V, tỉnh B;

2. Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn A, xã C, huyện V, tỉnh B.

(Anh Nguyễn Đức T, Nguyễn Thanh H đều có đơn yêu cầu tòa xét xử vắng mặt).

- Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 19/9/2022, Lê Huỳnh Q đi dạo bộ vào khu công nghiệp B tại thôn A, xã C, huyện V để tìm tài sản trộm cắp. Khi phát hiện một lán trại không có người trông coi, Lê Huỳnh Q vào trong lán trại lấy 01 máy siết bu lông cầm tay hiệu Dongcheng của Công ty TNHH Đ rồi nhanh chóng đi khỏi lán trại. Khi Lê Huỳnh Q rời khỏi lán trại khoảng 10m thì Nguyễn Đức T là công nhân thi công công trình cầu vượt B phát hiện, truy đuổi và bắt giữ Lê Huỳnh Q dẫn giải đến Công an xã Canh Vinh. Công an xã Canh Vinh lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và bàn giao cho Cơ quan Công an huyện Vân Canh.

Ngày 22/9/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vân Canh kết luận: 01 máy siết bu lông cầm tay hiệu Dongcheng có trị giá: 2.250.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Canh đã tạm giữ và trả lại cho bị hại 01 máy siết bu lông cầm tay hiệu Dongcheng.

Bản Cáo trạng số 18/CT-VKSVC ngày 07/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Lê Huỳnh Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Huỳnh Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến tranh luận. Đại diện bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Huỳnh Q về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lê Huỳnh Q mức án từ 09 đến 12 tháng tù. Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo nghề nghiệp không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, hứa không vi phạm pháp luật nữa và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại và những người làm chứng đều không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Xuất phát từ việc bản thân lười lao động nhưng lại muốn có tiền để tiêu xài cá nhân nên vào ngày 19/9/2022, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản đã lén lút chiếm đoạt 01 máy siết bu lông cầm tay hiệu Dongcheng của Công ty TNHH Đ trị giá 2.250.000 đồng. Do đó, Vin kiểm nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Lê Huỳnh Q về tội “Trộm cắp tài sản” quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[3] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội nhằm có tác dụng đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân bị cáo có nhân thân xấu thể hiện việc bị cáo đã bị 04 lần kết án về các tội Trộm cắp tài sản, Trốn khỏi nơi giam giữ; Hủy hoại tài sản và C ố ý làm hư hỏng tài sản; tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là những tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên cần áp dụng khi quyết định hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) “ thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo.

[6] Về bồi thường thiệt hại: Người đại diện theo ủy quyền Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ đã nhận lại 01 máy siết bu lông cầm tay hiệu Dongcheng và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Theo quy định tại các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Huỳnh Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Điểm a khoản 1 Điều 23; Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Huỳnh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Huỳnh Q 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/9/2022.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Huỳnh Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Canh - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về