Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2022/TLST-HS ngày 27/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HS ngày 18/02/2022 đối với bị cáo:

Đàm Văn T, sinh năm 1995.

Trú tại: Xóm P, xã T, huyện H, tỉnh Cao Bằng.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Đàm Văn N và con bà Trần Thị L; vợ, con: Chưa có.

- Tiền sự: Không.

- Tiền án: Tại bản án số 50/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” , tài sản trộm cắp có giá trị 17.875.000 đồng. (phạm tội ngày 23/12/2016). Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/5/2020.

- Nhân thân: Tại bản án số 10/2018/HS-ST ngày 17/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tài sản trộm cắp có giá trị 6.900.000 đồng . (phạm tội ngày 17/01/2018), đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/7/2018.

- Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang. Được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

-Bị hại:

1- Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1981. Vắng mặt. Trú tại: Thôn T, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

2-Ông Hà Văn Đ, sinh năm 1968. Vắng mặt.

Trú tại: Thôn B, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Bá C, sinh năm 1976. Vắng mặt. Trú tại: Thôn T, xã X, huyện S, TP. Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đàm Văn T- sinh năm 1995, Nơi cư trú: xóm P, xã T, huyện H, tỉnh Cao Bằng đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, không có nghề nghiệp ổn định. Đầu tháng 10/2021, T thuê trọ tại thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để tìm xin việc làm trong các khu công nghiệp nhưng chưa xin được việc làm. Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên Đàm Văn T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền chi tiêu; trong thời gian từ ngày 30/10/2021 đến ngày 08/11/2021, T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản là xe mô tô, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ ngày 30/10/2021, T đi bộ một mình từ phòng trọ đến ngã tư thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; trên đường đi thì T phát hiện thấy xe mô tô nhãn hiệu WAZELET, màu bạc,biển kiểm soát 98M1-0439 của anh Nguyễn Văn P- sinh năm 1981, trú tại thôn T, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang đang dựng ở rìa đường, chìa khóa cắm ở ổ khóa điện. Quan sát xung quanh thấy không có người, T đi đến ngồi lên xe mô tô 98M1- 0439 mở khóa điện, nổ máy điều khiển xe qua khu Công nghiệp Quang Châu, qua cống chui đường Cao tốc Hà Nội- Bắc Giang đến một cửa hàng thu mua bán sắt vụn ở ven đường gom của anh Nguyễn Bá C- sinh năm 1976, trú tại thôn T, xã X, huyện S, thành phố Hà Nội hỏi và bán xe mô tôtrên cho anh C được số tiền 600.000 đồng; số tiền bán xe có được T chi tiêu cá nhân hết. Ngày 03/11/2021, anh Nguyễn Văn P khi đi đến cửa hàng mua bán sắt vụn của anh Nguyễn Bá C để bán sắt vụn thì thấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98M1- 0439 của mình đang ở trong cửa hàng của anh C. Sau khi kiểm tra, biết chiếc xe mô tô trên là của anh P bị kẻ gian trộm cắp nên anh C đã trả lại chiếc xe trên cho anh P mà không đề nghị anh P bồi thường dân sự.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 157/KL-HĐĐGTS ngày 16/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu WAZELET, màu sơn bạc, biển kiểm soát 98M1-0439 có giá trị 1.500.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 9 giờ ngày 08/11/2021, T đi bộ một mình từ phòng trọ ở thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên mang theo 01 bộ vam phá khóa xe máy tự chế gồm 01 mũi khoan bằng kim loại dạng xoắn, một đầu bẹt, một đầu hình trụ tròn có dãnh dài 15cm và 01 kìm bằng kim loại màu xám theo hướng thôn Vân Cốc 1, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để tìm xem có tài sản sơ hở thì trộm cắp tài sản bán lấy tiền; khi T đi đến khu vực cổng Ủy ban nhân dân xã Vân Trung, huyện Việt Yên phát hiện thấy có 01 chiếc xe mô tô màu xanh nhãn hiệu ANGELHI, màu sơn xanh, biển kiểm soát 98H9-8724 của anh Hà Văn Đ- sinh năm 1968, trú tại thôn B, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang đang dựng ở rìa đường sát cổng Ủy ban nhân dân xã Vân Trung; quan sát xung quanh thấy không cón gười, T đi đến chỗ dựng chiếc xe mô tô, lấy mũi khoan đã chuẩn bị sẵn cho vào ổ khóa điện xe rồi dùng kìm vặn mũi khoan theo chiều kim đồng hồ thì mở được khóa điện xe. Thấy vậy, T ngồi lên xe, nổ máy điều khiển xe đi theo hướng đi qua thôn Vân Cốc 4, xã Vân Trung, rồi đi qua cống chui đường cao tốc rẽ trái đi trên đường gom dân sinh đếncửa hàng mua bán sắt vụn của anh Nguyễn Bá C hỏi bán chiếc xe mô tô trên thì anh C nhận ra được T là người đã bán cho anh C chiếc xe mô tô 98M1-0439của anh Nguyễn Văn P nên anh C đã nghi vấn T là đối tượng trộm cắp tài sản nên anh C đã liên hệ với anh Nguyễn Văn P thông tin nội dung sự việc. Sau đó, anh P đã trình báo Công an xã Vân Trung phối hợp mời, đưa Đàm Văn T về trụ sở Công an xã Vân Trung làm việc. Tại đây, T đã có xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của bản thân; quá trình đầu thú Đàm Văn T giao nộp gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu ANGELHI, màu sơn xanh, biển kiểm soát 98H9- 8724; 01 mũi khoan bằng kim loại dạng xoắn, một đầu bẹt, một đầu hình trụ, dài 15cm; 01 kìm kim loại màu xám dài 16cm.

Ngày 08/11/2021, Công an xã Vân Trung tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu WAZELET màu sơn xám, biển kiểm soát 98M1- 0439 của anh Nguyễn Văn P.

Cùng ngày 08/11/2021, Công an xã Vân Trung đã chuyển hồ sơ, vật chứng và đối tượng T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 157/KL-HĐĐGTS ngày 16/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Angelhi, màu sơn xanh, biển kiểm soát 98H9-8724 có giá trị 1.200.000 đồng.

Ngày 16/11/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành cho anh Nguyễn Bá C nhận dạng người đã bán xe mô tô cho anh. Kết quả nhận dạng anh C đã nhận ra Đàm Văn T là người đã đến bán xe mô tô 98M1-0439cho anh C vào ngày 30/10/2021.

Ngày 16/11/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 30/10/2021 tại thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và ngày 08/11/2021 tại thôn Vân Cốc 1, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Bản Cáo trạng số 16/CT- VKS ngày 25/012022 của VKSND huyện Việt Yên đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử bị cáo Đàm Văn T về tội "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173- Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của VKS đã truy tố. Nay bị cáo thấy được tội lỗi của mình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện VKS sau khi phân tích tính chất của vụ án và giữ nguyên quan điểm truy tố của bản Cáo trạng, đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 – BLHS.

Xử phạt: Đàm Văn T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 09/11/2021.

Không áp dụng khoản 5 Điều 173 BLHS để phạt tiền đối với bị cáo Đàm Văn Tuyên.

Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47- BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106- Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 mũi khoan bằng kim loại dạng xoắn, một đầu bẹt, một đầu hình trụ, dài 15cm và 01 kìm kim loại màu xám dài 16 cm.

Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 - BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đàm Văn T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là thành khẩn, phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều travà các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Đàm Văn T đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích; trong ngày 30/10/2021 và ngày 08/11/2021, bị cáo T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản (có tổng giá trị 2.700.000 đồng) trên địa bàn xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ ngày 30/10/2021, tại vỉa hè thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; Đàm Văn Tuyên đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wazelet, màu sơn bạc, biển kiểm soát 98M1- 0439 có giá trị 1.500.000 đồng của anh Nguyễn Văn P- sinh năm 1981, trú tại thôn, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

Vụ thứ hai: Khoảng 09 giờ ngày 08/11/2021, tại khu vực trước cổng Ủy ban nhân dân xã Vân Trung thuộc thôn Vân Cốc 1, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; Đàm Văn T đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ANGELHI, màu sơn xanh, biển kiểm soát 98H9-8724 có giá trị 1.200.000 đồng của anh Hà Văn Đ- sinh năm 1968, trú tại thôn B, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Cáo trạng số 16/CT- VKS ngày 25/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đã truy tố bị cáo Đàm Văn T phạm tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173- Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Trong vụ án này chỉ có một mình bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại để chiếm đoạt tài sản có giá trị 2.700.000đồng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho người khác về việc quản lý tài sản. Vì vậy phải có mức hình phạt tù tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục riêng và phong ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đàm Văn T có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, nay tiếp tục thực hiện 02 lần phạm tội, mỗi lần chưa đủ định lượng để cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, 01 tiền án trên là tình tiết định tội đối với bị cáo trong vụ án này nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự HĐXX thấy: Sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 – BLHS. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án theo quy định tại Điều 329 – BLTTHS.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên không áp dụng khoản 5 Điều 173- BLHS để phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp pháp luật.

[7] Trong vụ án này đối với anh Nguyễn Bá C là người đã mua chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98M1- 0439 của Đàm Văn T ngày 30/10/2021; quá trình điều tra xác định trước, trong khi mua xe anh C không biết là tài sản do Đàm Văn T phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn P, ông Hà Văn Đ và anh Nguyễn Bá C không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng của vụ án: Sau khi vụ án được làm rõ, ngày 22/12/2021, Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 98M- 0439 cho anh Nguyễn Văn P; trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 98H9-8724 cho ông Hà Văn Đ là chủ sở hữu hợp pháp, xét thấy cần chấp nhận.

Đối với 01 mũi khoan bằng kim loại dạng xoắn, một đầu bẹt, một đầu hình trụ, dài 15cm và 01 kìm kim loại màu xám dài 16 cm là tài sản của bị can T sử dụng làm công cụ phạm tội nên cần được tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí.

[11] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 là chưa phù hợp, bởi lẽ bị cáo có tiền án nhưng đã tính là tình tiết để định tội theo điểm b khoản 1 Điều 173- Bộ luật hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

(1) Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 ,Điều 38 – Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đàm Văn T 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản". Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/11/2021.

(2) Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47- BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106- BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy 01 mũi khoan bằng kim loại dạng xoắn, một đầu bẹt, một đầu hình trụ, dài 15cm và 01 kìm kim loại màu xám dài 16 cm.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Việt Yên).

(2) Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 - BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đàm Văn T.

(3) Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333, 334 - BLTTHS.

Báo cho bị cáo có mặt biết, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về