Bản án về tội trộm cắp tài sản số 268/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 268/2023/HS-ST NGÀY 13/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở TAND Thành phố B xét xử trực tuyến vụ án hình sự:

Điểm cầu Trung tâm: Hội trường số 4 trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ;

Điểm cầu thành phần: Phòng xét xử trực tuyến Nhà tạm giữ-Công an thành phố B, tỉnh Đ.

Đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 246/2023/ TLST-HS ngày 05/5/2023 đối với bị cáo:

- Trần Đạt D, sinh năm 1980 tại tỉnh Đ. Nơi cư trú: Số 15 Nguyễn Thị H, khu phố 1, phường Thanh Bình, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Đạt P (còn sống) và bà Nguyễn Thị Đ (còn sống); Có vợ: Lê Thị Thu K đã ly hôn, có 01 con chung sinh năm 2007; Tiền án: Có 02 tiền án, cụ thể: Ngày 29/11/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 01 năm tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Ngày 15/3/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 01 năm 04 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 10/2021/HSST ngày 21/01/2021 của Tòa án nhân dân Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt ngày 02/02/2023. Bị cáo bị tạm giữ ngày 07/02/2023, đến ngày 10/02/2023 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố B, tỉnh Đ, có mặt.

- Bị hại:

+ Huỳnh Tấn P, sinh năm 1999. Trú tại: 158/48/54, khu phố 3, phường Quang Vinh, thành phố B, tỉnh Đ, vắng mặt.

+ Ông Đỗ Minh T, sinh năm 1991. Trú tại: 8B/14 khu phố Quyết Thắng, phường Bình Thắng, thành phố D, tỉnh D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trần Đạt D là đối tượng đã có tiền án về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và “Trộm cắp tài sản” nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ 1: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/5/2020, anh Đỗ Minh K sinh năm 1991 đến tiệm nét “ S” thuộc khu phố 2, phường Bửu Long, thành phố B để chơi game. Sau đó anh L gởi lại xe mô tô hiệu Wave S, biển số 61D-xxxxx tại tiệm nét nhờ anh Nguyễn Việt T là nhân viên tiệm nét trông coi giúp (không có thẻ gởi xe) rồi anh L đi đến nhà bạn chơi. Khoảng 21 giờ ngày 16/5/2020, Trần Đạt D đi bộ đến tiệm nét “ S” chơi game. Đến khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày D nhìn thấy xe mô tô biển số 61D-xxxxx có cắm sẵn chìa khóa trên ổ khóa điện, lợi dụng lúc anh Nguyễn Việt T đang dọn dẹp trong tiệm không để ý, D đã lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô trên. Sau đó D điều khiển xe mô tô trộm cắp đến huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh bán được 2.000.000đ và tiêu xài hết.

Vụ thứ 2: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 18/5/2020, anh Huỳnh Tấn P, sinh năm 1999 đến tiệm nét “T” khu phố 1, phường Long Bình, thành phố B chơi game và để xe mô tô hiệu Airblade biển số 60X9-xxxx tại khu vực bãi xe của tiệm nét (không thẻ gởi xe). Khoảng 19 giờ ngày 18/5/2020, Trần Đạt D đi bộ đến tiệm nét “T” chơi game. Đến khoảng 19h50 phút lợi dụng không có người trông coi nên D lén lút trộm cắp và đẩy bộ theo hướng cầu Hóa An. Trên đường đi D ghé vào tiệm sửa xe bên đường (không nhớ tên quán và địa chỉ) nhờ mở khóa. Sau đó, D điều khiển xe mô tô đến huyện Bình Chánh bán được 4.000.000đ và tiêu xài hết.

Xe mô tô biên số 61D-xxxxx của anh Đỗ Minh L và xe mô tô biển số 60X9-xxxx của anh Huỳnh Tân P không thu hồi được.

Kết luận định giá số 377/KL-HĐĐGTS ngày 21/8/2020, định giá xe mô tô 61D-xxxxx của anh Đỗ Minh L có trị giá 8.895.000đ đ và tại kết luận định giá số 303/KL-HĐĐGTS ngày 14/7/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự của thành phố B định giá xe mô tô biển số 60X9-xxxx của anh Huỳnh Tân P có trị giá 5.000.000đ. Anh L và anh P yêu cầu bị cáo D bồi thường thiệt hại theo kết luận định giá.

Tại cáo trạng số 261/CT-VKSBH, ngày 04/5/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Trần Đạt D về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại điểm cầu thành phần Phòng xét xử trực tuyến Nhà tạm giữ - Công an thành phố B, tỉnh Đ bị cáo trình bày: Bị cáo đồng ý với bản cáo trảng Viện kiểm sát truy tố và đồng ý bồi thường dân sự cho anh K và anh P theo kết luận của Hội đồng định giá.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Trần Đạt D về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, vi phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Xét về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về mức hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

+ Buộc bị cáo Trần Đạt D bồi thường cho anh Đỗ Minh K số tiền 8.895.000đ (Tám triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

+ Buộc bị cáo Trần Đạt D bồi thường cho anh Huỳnh Tấn P số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua quá trình điều tra, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, Vụ thứ nhất: Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 16/5/2020, tại tiệm nét “S” thuộc khu phố 2, phường Long Bình, thành phố B, Trần Đạt D có hành vi trộm cắp của anh Đỗ Minh K xe mô tô biển số 60D1-xxxxx có trị giá 8.895.000đ.

Vụ thứ hai: Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 18/5/2020, tại tiệm nét “T” thuộc khu phố 1, phường Long Bình, thành phố B, Trần Đạt D có hành vi trộm cắp của anh Huỳnh Tấn P xe mô tô biển số 60X9-xxxx có trị giá 5.000.000đ Từ những căn cứ nêu trên có cơ sở kết luận hành vi của bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của BLHS.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng đối với hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo phạm tội nhiều lần vi phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điểu 52 của Bộ luật hình sự; Phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo và giáo dục bị cáo có ý thức tuân thủ pháp luật.

[5] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

+ Buộc bị cáo Trần Đạt D bồi thường cho anh Đỗ Minh K số tiền 8.895.000đ (Tám triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

+ Buộc bị cáo Trần Đạt D bồi thường cho anh Huỳnh Tấn P số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

[6] Xét đề nghị của đại diện VKSND thành phố B phù hợp với nhận định nêu trên nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tuyên bố bị cáo: Trần Đạt D phạm tội “Trộm cắp tài sản” .

- Xử phạt bị cáo Trần Đạt D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/02/2023.

2. Về dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự:

+ Buộc bị cáo Trần Đạt D bồi thường cho anh Đỗ Minh K số tiền 8.895.000đ (Tám triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

+ Buộc bị cáo Trần Đạt D bồi thường cho anh Huỳnh Tấn P số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 694.750đ (Sáu trăm chín mươi bốn nghìn bảy trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày. Người có mặt tính từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 268/2023/HS-ST

Số hiệu:268/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về