Bản án về tội trộm cắp tài sản số 266/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 266/2021/HSPT NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 215/2021/TLPT- HS ngày 10 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Duy Q, sinh năm 1995.

ĐKHKTT: xóm X, xã C, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: đường T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Phạm Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 155/2017/HSST ngày 07/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt 34 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Nhân thân: Ngày 08/02/2013 Công an huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình xử phạt hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”;

Danh chỉ bản số 000000603 lập ngày 21/10/2020 tại Công an quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Bị cáo đầu thú ngày 13/10/2020; tạm giữ ngày 14/10/2020; tạm giam ngày 23/10/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa;

2. Lê Xuân C, sinh năm 1994.

ĐKHKTT: phố L, phường P, quận Đ, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: đường T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Xuân H và bà Nguyễn Thị N; có vợ Trần Thị Phương A và 01 con (sinh năm 2020); tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 74/2017/HSPT ngày 24/02/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 16 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng” (bị cáo chưa nộp tiền án phí).

Danh chỉ bản số 000000607 lập ngày 21/10/2020 tại Công an quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Bị cáo đầu thú ngày 13/10/2020; Tạm giữ từ ngày 14/10/2020 đến ngày 22/10/2020. Thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 22/10/2020. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa;

* Bị hại: Anh Cù Huy T, sinh năm 1994; nơi cư trú: Số 28 ngõ 61 phố P, phường Nghĩa Đ, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do trước đây có bạn gái thuê trọ tại số 28 ngõ 61 phố Phùng Chí Kiên, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, nên Trần Duy Q có chìa khóa ra vào khu nhà trọ. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/10/2020, Trần Duy Q gọi điện thoại cho Lê Xuân C để bảo C chở Q đi có việc. Trên đường đi Q rủ C đến nhà trọ trên để trộm cắp xe máy, C ban đầu can nhưng sau khi nghe Q nói là không sợ vì Q đã bị đuổi khu trọ rồi, không ở đó nữa thì C đồng ý. C chở Q đến đầu ngõ 61 phố Phùng Chí Kiên để Q đi bộ vào khu trọ trộm xe còn C đi ra đầu đường Hoàng Quốc Việt chờ, nếu Q lấy được xe máy thì sẽ đẩy xe máy trộm cắp được về nơi cất giấu. Q đi vào nhà số 28 ngõ 61 phố Phùng Chí Kiên, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội rồi dùng chìa khóa mở cổng. Tại đây, Q quan sát thấy có 01 chiếc xe máy Yamaha NVX màu đỏ - đen BKS: 29E2-350.29 của anh Cù Huy T không có người trông giữ, không khóa cổ, khóa càng nên Q đã lấy trộm chiếc xe. Do không mở được khóa điện của xe nên Q để ngồi lên xe và đẩy xe bằng chân ra đến đầu ngã ba giao giữa đường Hoàng Quốc Việt và phố Phùng Chí Kiên thì gặp C chờ sẵn ở đấy. Q bảo C dùng xe máy đẩy Q và chiếc xe máy vừa trộm cắp được lên phố Đội Cấn để phá khóa. Đến một quán trà đá tại phố Đội Cấn thì cả hai dừng lại, Q tìm được thợ sửa khóa trên mạng xã hội và liên hệ được báo giá công sửa hết 1.400.000 đồng, do không có tiền nên Q bảo C đi vay tiền. C đã vay được của một người bạn xã hội tên Dung số tiền 1.400.000 đồng và đưa tiền cho thợ sửa khóa, Q ngồi chờ sửa khóa còn C đi giao đồ ăn. Sau khi sửa được khóa Q điều khiển xe máy vừa trộm cắp được về nhà tại số 14 ngõ 88 đường Trần Duy Hưng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội để cất giấu. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày Q gọi điện thoại và bảo C là không tìm được người mua xe máy trộm cắp nên nhờ C đăng lên mạng để bán xe. C dùng tài khoản Facebook đăng bài trên trang “Hội mua bán xe không giấy tờ Hà Nội” với nội dung muốn chiếc xe máy Yamaha NVX màu đỏ - đen không có giấy tờ. Sau khi đăng thì có người mua là anh Bùi Duy T1 sử dụng nick Facebook “Con rồng đen” và “Trần Công T1” nhắn tin để hỏi mua chiếc xe, cả hai thống nhất mua bán chiếc xe với giá 11.500.000 đồng. Khi giao dịch C nói với T1 là xe trên do khách cầm cố, bỏ lại không có giấy tờ. T1 và C hẹn nhau ra khu vực cầu Vĩnh Tuy để giao dịch. C gọi cho Q nhưng không liên lạc được nên đã tự lấy chiếc xe trộm cắp được tại nhà trọ số 14 ngõ 88 đường Trần Duy Hưng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội để bán cho Bùi Duy T1. C bán được xe với giá tiền là 11.500.000 đồng nhưng C chỉ báo và đưa cho Q số tiền bán xe là 10.500.000 đồng, C giữ lại 1.000.000 đồng để tiêu xài. Q đưa cho C khoảng 4.000.000 đồng trong đó Q bảo để C trả bạn 1.400.000 đồng tiền vay để sửa khóa chiếc xe vừa trộm cắp được, trả cho C 2.000.000 đồng tiền Q vay từ trước đó còn lại khoảng 600.000 đồng thì cho C tiêu xài. Đến ngày 13/10/2020 anh Cù Huy T có nhắn tin vào bài đăng bán xe của C để hỏi thông tin về chiếc xe C đăng bán thì C trả lời đã bán xe, anh T nhắn nhờ mua lại với giá cao hơn, nhờ C trao đổi với anh T1 để xin mua lại nếu được thì sẽ trả cho C tiền công là 500.000 đồng. C nhắn tin và bảo mua lại xe với anh T1 thì anh T1 đồng ý bán xe với giá 15.000.000 đồng rồi hẹn nhau ở cầu Long Biên để giao dịch. C hẹn anh T ở cổng trường Đại học Bách Khoa rồi chở anh T đến gặp anh T1 để giao dịch. Anh T1 điều khiển xe máy trên đến gặp anh T để bán lại. Sau khi kiểm tra anh T phát hiện chiếc xe này đúng là xe của anh T bị trộm cắp nên đã báo Cơ quan công an đến thu giữ xe và mời C, anh T1 về Cơ quan công an để làm việc. Nhận thức được hành vi phạm tội của mình, Q và C đều ra đầu thú tại Cơ quan công an.

Cơ quan công an đã tạm giữ của Phạm Minh Đ là người cùng khu trọ của Trần Duy Q 01 chiếc chìa khóa mà Q đưa cho Đức để trả cho chủ nhà; tạm giữ của anh Bùi Duy T1 01 chiếc xe máy Yamaha NVX màu đỏ - đen BKS: 29E2-350.29, 01 bản photo Giấy chứng nhận xe và 01 điện thoại di động OPPO A37 dùng để liên lạc mua bán xe máy trên; tạm giữ của Lê Xuân C 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 dùng để liên lạc mua bán xe máy trên, 01 chiếc xe máy BKS: 30F9-8214 và 01 áo khoác đỏ; tạm giữ của Trần Duy Q 01 chiếc điện thoại di động Nokia 105.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Duy Q, Lê Xuân C khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

Kết luận định giá số 438/TCKH-BBĐGHĐ ngày 14/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy kết luận 01 xe máy Yamaha NVX màu đỏ - đen, BKS: 29E2-350.29 trị giá 28.450.000 đồng.

Ngày 08/12/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã trao trả chiếc xe máy Yamaha NVX màu đỏ - đen, BKS: 29E2-350.29 và 01 Giấy chứng nhận xe cho anh Cù Anh T. Anh T đã nhận tài sản và không có yêu cầu bồi thường dân sự.

Anh Bùi Duy T1 có hành vi mua xe máy của Lê Xuân C, khi mua không biết xe do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý. Anh không yêu cầu các bị cáo trả lại số tiền 11.500.000 đồng.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave BKS: 30F9-8214 thu giữ của Lê Xuân C, C khai mua của người không quen biết và đã bị mất giấy tờ. Xác minh thì xe đăng ký mang tên Nghiêm Thuận A (trú tại: Số 8 phố Y, phường C, quận H, thành phố Hà Nội). Xác minh tại phường C thì không có anh Thuận A cư trú tại địa chỉ trên. Cơ quan cảnh sát điều tra đã đăng báo nhưng chưa có kết quả nên ngày 10/12/2020 đã có quyết định tách rút tài liệu liên quan đến chiếc xe này để điều tra xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSCG ngày 29/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội:

Tuyên bố bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Trần Duy Q 28 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2020.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân C 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Thời gian tạm giữ từ ngày 14/10/2020 đến ngày 22/10/2020 được trừ vào thời gian chấp hành của bản án.

Ngày 01 và ngày 02/02/2021, bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C lần lượt có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nhận định:

Về hình thức kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Duy Q 28 tháng tù và xử phạt bị cáo Lê Xuân C 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp, tương xứng với nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hậu quả xảy ra và hành vi phạm tội của các bị cáo.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, được Hội đồng xét xử chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]Căn cứ vào lời khai của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C, vật chứng thu được, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/10/2020 tại số 28 ngõ 61 phố Phùng Chí Kiên, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Trần Duy Q và Lê Xuân C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy Yamaha NVX màu đỏ - đen BKS: 29E2-350.29 của anh Cù Huy T, trị giá 28.450.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi của các bị cáo gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho nhân dân tại địa phương, làm mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo Trần Duy Q có 01 tiền án (chưa xóa án tích) và 01 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Lê Xuân C có 01 tiền án (chưa xóa án tích) về tội “Gây rối trật tự công cộng” thể hiện các bị cáo đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tái phạm, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do đó, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo theo quy định của pháp luật để răn đe và phòng ngừa chung.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã đến Cơ quan điều tra để đầu thú và cho các bị cáo được các hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không xuất trình tài liệu nào mới, xét mức hình phạt 28 tháng tù đối với bị cáo Trần Duy Q và 24 tháng tù đối với bị cáo Lê Xuân C mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phù hợp với mức độ, tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[4]Biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú (Bút lục 34, 37) thể hiện bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C đến Cơ quan điều tra đầu thú vào ngày 13/10/2020 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mức phạt tù đối với bị cáo Trần Duy Q tính từ ngày 14/10/2020 và quyết định mức phạt tù đối với bị cáo Lê Xuân C tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/10/2020 đến ngày 22/10/2020 là chưa chính xác, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo.

Bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C được trừ thời gian đã bị bắt, tạm giữ, tạm giam vào hình phạt tù, cứ mỗi ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam được tính trừ một ngày tù.

[5]Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm nên bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[6]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C, giữ nguyên Quyết định của bản án sơ thẩm:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Trần Duy Q 28 (Hai mươi tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 13/10/2020.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt tạm giữ từ ngày 13/10/2020 đến ngày 22/10/2020.

2. Về án phí: áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Duy Q và bị cáo Lê Xuân C, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 14/4/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 266/2021/HSPT

Số hiệu:266/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về