TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 262/2021/HS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 61/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2021/QĐXXST–HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2021/HSST-QĐ ngày 26 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Bùi Tiến T, sinh ngày: 13/3/1997 tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn Trung, xã S, huyện H, tỉnh B; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Tiến V và bà Bùi Thị N; chưa có vợ con; tiền án: không có; tiền sự: không có; nhân thân:
- Bản án số 328/2020/HS-ST ngày 23/12/2020, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Nguyên, thành phố Hải Phòng; ngày: 01/6/2020, ra đầu thú trong vụ án khác tại Công an quận Cầu Giấy. (có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)
- Bị hại: Ông Nguyễn Hùng C, sinh năm: 1989 và bà Vũ Thị M, sinh năm: 1993.
Nơi cư trú: 1041 C, khu phố 1, phường T, thành phố D, Thành phố M. (vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Vũ Văn V, sinh năm: 1999.
Nơi cư trú: số ** đường K, khu phố 1, phường T, thành phố D, Thành phố M. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1]. Bùi Tiến T là người làm công cho vợ chồng ông Nguyễn Hùng C và bà Vũ Thị M tại tiệm mắt kính Điện Biên Phủ, địa chỉ số 1041 Kha Vạn Cân, khu phố 1, phường Linh Tây, quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 13/8/2019. Ngày 19/8/2019, trong lúc đang làm việc thì T nhìn thấy ông C cất tiền vào trong hộc tủ của tủ nhựa đựng quần áo (tủ không có khóa) tại tầng 2 tiệm mắt kính. Khoảng 17 giờ ngày 22/8/2019, T nảy sinh ý định trộm cắp số tiền trên của vợ chồng ông C để trả nợ và tiêu xài. Lợi dụng lúc ông C, bà M đang ở tầng 1, T giả vờ đi thay đồ thể thao, xách chiếc túi màu đen (loại túi đựng đồ dùng thể thao) đi lên tầng 2. Sau đó, T lén lút lấy trộm số tiền 240.000.000 đồng mà ông C cất trong hộc của tủ nhựa, bỏ vào trong túi xách thể thao rồi đi xuống. Tại tầng trệt, T gặp bà M và mượn xe mô tô hiệu Honda SH 125i, biển số 59X3-137.98 để đi đá bóng, bà M đồng ý.
Khoảng 13 giờ ngày 23/8/2019, T điều khiển xe mô tô biển số 59X3-137.98 đến tiệm sửa xe Tuấn mô tô do ông Quan Anh Tuấn làm chủ tại địa chỉ số 38A đường A4, Phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh để thay nhớt xe.
Trong lúc thay nhớt xe, T đưa cho ông Tuấn số điện thoại của ông C và dặn ông Tuấn khi nào thay nhớt xe xong thì điện thoại cho ông C đến nhận xe. Sau đó, T nhắn tin cho ông Thắng, là nhân viên làm chung với T thông báo đang gửi chiếc xe mô tô biển số 59X3-137.98 tại tiệm Tuấn mô tô rồi T bỏ trốn về Thành phố Hà Nội. Không thấy T về nhà và trả xe nên bà M nghi ngờ, kiểm tra lại tài sản thì thấy mất số tiền 240.000.000 đồng. Đến 02 giờ 30 phút ngày 23/8/2019, bà M đã đến Công an phường Linh Tây, quận Thủ Đức trình báo sự việc. Nhận được tin báo của ông C, Công an đã thu hồi xe mô tô nói trên tại tiệm sửa xe Tuấn mô tô và trả xe cho ông C, bà M.
Sau khi trốn về Thành phố Hà Nội, tháng 3/2020, T thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đến ngày 01/6/2020 thì ra đầu thú.
Quá trình điều tra, Bùi Tiến T khai nhận hành vi trộm cắp số tiền 240.000.000 đồng của vợ chồng ông C và bà M phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được. Sau khi chiếm đoạt tài sản, biết ông C đang tìm mình nên T đã liên hệ với ông C và trả lại được số tiền 96.000.000 đồng, số tiền còn lại T đã tiêu xài hết.
Tại Bản Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 23/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố bị cáo Bùi Tiến T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Tiến T có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Nguyên, thành phố Hải Phòng. Xét thấy sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử do đó, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức phát biểu: Bị cáo Bùi Tiến T có đơn xin xét xử vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử, do đó đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo. Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Tiến T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 08 đến 09 năm tù và tổng hợp hình phạt 04 năm 06 tháng tù của Bản án số 328/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội. Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo bồi thường số tiền còn lại cho bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức (nay là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức), Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và trước khi mở phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Tiến T phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường và các biên bản hoạt động điều tra khác… Từ đó có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 22/8/2019, tại tiệm mắt kính Điện Biên Phủ, số 1041 Kha Vạn Cân, khu phố 1, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Bùi Tiến T có hành vi lén lút lấy số tiền 240.000.000 đồng của vợ chồng ông Nguyễn Hùng C và bà Vũ Thị M. Sau khi lấy trộm tiền, bị cáo trốn về Thành phố Hà Nội sinh sống, biết ông C và bà M đang tìm bị cáo nên bị cáo đã trả lại được 96.000.000 đồng. Thời gian này, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bỏ trốn, đến ngày 01/6/2020 thì ra đầu thú, đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, xét có đủ cơ sở kết luận bị cáo Bùi Tiến T phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại số tiền 240.000.000 đồng do đó cần áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với hành vi của bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục, trả lại cho bị hại 96.000.000 đồng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân xấu, sau khi phạm tội, bị cáo trốn về Thành phố Hà Nội và tiếp tục phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", ngày 23/12/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội xử phạt 04 năm 06 tháng tù. Bản án đã có hiệu lực pháp luật nên cần tổng hợp hình phạt để buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung. Do đó xét thấy cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên xem xét cùng với tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, đã khắc phục được 96.000.000 đồng nên giảm cho bị cáo một mức hình phạt tương đương và phù hợp.
Đối với hành vi bị cáo mượn xe mô tô hiệu Honda SH 125i, biển số 59X3- 137.98 của bà Vũ Thị M sau đó bị cáo đã trả lại, không có ý định chiếm đoạt nên không có căn cứ để xử lý bị cáo.
[3]. Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại ông Nguyễn Hùng C và bà Vũ Thị M yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền còn lại 144.000.000 đồng, xét đây là yêu cầu có căn cứ nên buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Bùi Tiến T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự Xử phạt: Bị cáo Bùi Tiến T 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" của Bản án số 328/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2020.
- Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự.
Buộc bị cáo bồi thường cho ông Nguyễn Hùng C và bà Vũ Thị M số tiền 144.000.000 (Một trăm bốn mươi bốn triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành tại thời điểm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 7.200.000 (Bảy triệu hai trăm ngàn) đồng.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cần thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 262/2021/HS-ST
Số hiệu: | 262/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về