TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 26/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2024/TLHS-ST ngày 26/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36 /2024/QĐXXST-HS ngày 16/02/2024 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Đình T; sinh năm: 1997; HKTT và nơi ở: Thôn Tiền Thôn, xã Văn Môn, huyện Y, tỉnh B; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ và tên bố: Nguyễn Đình T, sinh năm: 1971; Họ và tên mẹ: Nghiêm Thị O, sinh năm: 1975; Gia đình bị cáo có 02 anh em. Bị cáo là con thứ hai. Bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án, Tiền sự: Không Tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/11/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – C an thành phố H.
(Có mặt)
2. Bùi X T1; sinh năm: 1991; HKTT: Thôn Dương Liễu 2, xã Minh Tân, huyện X, T; Nơi ở: P315 tòa Rice city sông Hồng, phường Thượng Thanh, quận B, H. Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ và tên bố: Bùi Văn V, sinh năm: 1960; Họ và tên mẹ: Đỗ Thị P, sinh năm: 1965; Gia đình bị cáo có 03 chị em. Bị cáo là con thứ ba. Họ và tên vợ: Bùi Thị C, sinh năm: 1994; có 02 con sinh năm 2012 và năm 2014.
Tiền án, Tiền sự: Không Tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/11/2023, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/11/2023.
(Có mặt)
Người bị hại:
Anh Nguyễn X T2, sinh năm 2005; (vắng mặt) Nơi thường trú: Khu 4, xã Ngọc Quan, huyện Đ, tỉnh Th.
Nơi ở hiện tại: Số 18 phố Nguyễn Thái Học, phường Điện Biên, quận Đ, thành phố H.
Chị Nguyễn Thị Hà P, sinh năm 1999; (vắng mặt) Nơi thường trú: Số 21 phố Đặng Dung, phường Quán Thánh, quận Đ, thành phố H.
Anh Trần Ngọc C, sinh năm 2002; (có mặt) Nơi thường trú: Tổ 29, Khu H, Thanh Miếu, V, Th.
Nơi ở hiện tại: Đại học Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy, 243 Khuất Duy Tiến, Thanh X, H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990; (vắng mặt) Nơi thường trú: Số 88 Tổ 18 Thanh Lương, phường Thanh Lương, quận H, thành phố H.
Nơi ở hiện tại: 465G phố Đội Cấn, phường Vĩnh Phúc, quận Đ, thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 02/11/2023, thông qua Trung tâm môi giới việc làm, anh Nguyễn Đình Cảnh (Sinh năm: 1992, HKTT và nơi ở: Số 22 ngách 189/15/16 An Dương, Yên Phụ, Tây Hồ, H) thuê và ký Hợp đồng lao động vớiT làm nhân viên phục vụ và ăn ở tại nhà hàng ăn uống B có địa chỉ số 18 Nguyễn Thái Học, phường Điện Biên, Đ, H. Tại cửa hàng trên còn có anh Nguyễn X T2 (Sinh năm: 2005, Nơi ở: 18 Nguyễn Thái Học, Đ, H), chị Nguyễn Thị Hà P (Sinh năm: 1999, HKTT và nơi ở: 21 Đặng Dung, Quán Thánh, Đ, H) và anh Phạm T1 V (Sinh năm: 2001, HKTT: Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình) làm nhân viên. Tối ngày 02/11/2023, anh V mượn xe máy Honda Vision biển kiểm soát: 29B2-xxxxx của chị P để sử dụng, sau đó về cất xe máy tại tầng 1 cửa hàng và lên tầng 2, để chùm chìa khóa xe trên mặt bàn đầu giường rồi nằm ngủ cùng anh T2 vàT. Đến khoảng 6h30’ ngày 03/11/2023, khi chị P đến cửa hàng thì phát hiện bị mất xe máy Honda Vision trên, anh T2 phát hiện bị mất 01 điện thoại Iphone 6s để cạnh chỗ nằm. Qua kiểm tra camera, phát hiệnT là người là người đã lấy điện thoại của anh T2, lấy chùm chìa khóa xe máy Honda Vision của chị P và điều khiển xe máy ra khỏi cửa hàng, anh T2, chị P đã trình báo C an phường Điện Biên.
Qua truy xét, Cơ quan điều tra đã bắt giữ Nguyễn ĐìnhT khiT đang ngồi tại quán Internet số 48 ngõ 205 Giải Phóng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, H.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn ĐìnhT khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Sau khi trộm cắp được 01 điện thoại và 01 xe máy trên,T điều khiển xe máy Vision vừa trộm cắp được đi tìm nơi tiêu thụ điện thoại. Khoảng 8h30’,T đến cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại số 465G Đội Cấn, Vĩnh Phúc, Đ, H gặp chị Nguyễn Thị L (Sinh năm: 1990, HKTT: 68 tổ 18 Thanh Lương, Hai Bà Trưng, H, Nơi ở: 465G Đội Cấn, Vĩnh Phúc, Đ, H) là chủ quán và nói là có điện thoại không có mật khẩu, bị xước màn hình muốn bán, chị L nói chỉ mua lại xác điện thoại với giá 50.000 đồng,T đồng ý và nhận 50.000 đồng từ chị L. Sau đó,T đi đến quán Internet trên phố Định C, Hoàng Mai, H (không xác định chính xác địa chỉ) để chơi game. Tại đây,T đăng nhập tài khoản Facebook “Nguyễn Văn L” của mình, vào nhóm “Hội mua bán xe máy cũ H” và “Hội mua bán xe không giấy tờ H” rồi bình luận “tôi có 01 chiếc Honda Vision 2022 màu đen cần bán”.
Cũng trên nhóm facebook trên,T đọc được bài viết cần mua xe của tài khoản facebook X T1 (do Bùi X T1 sử dụng) nên đã chủ động nhắn tin cho T1 với nội dung: "cần bán vision 2022 đỏ đi gần vạn ở Hoàng Mai ai mua inbox 12tr". Cùng thời điểm này, T1 không cóP tiện đi lại, không có nhiều tiền để mua 01 chiếc xe máy mới nên T1 đã nghĩ đến việc lên mạng xã hội Facebook tìm kiếm hội, nhóm mua, bán xe máy không có giấy đăng ký xe, bán với giá rẻ. T1 sử dụng tài khoản Facebook của T1 tên "X T1", tham gia nhóm có tên "Mua, bán xe không giấy tờ". Sau khi đọc được bình luận củaT muốn bán xe vision với giá 12 triệu, T1 hỏiT: "xe đang đeo biển gì bác, đã thay biển chưa",T trả lời: "chưa bác biển hn thui có sao đâu mà phải thay". T1 nói tiếp: "xe nhẩy, Ko thay, Đen gặp đúng chủ, Nó vả cho, Ko chệch phát nào, Nên đây thì ko có tiền gặp xe nhẩy, Chứ làm gì có của ngon". T1 nhận thức được là xe không có giấy tờ, do người khác phạm tội mà có, nên mới có giả rẻ, vì xe Honda Vision hiện có giá trị khoảng 37 - 40 triệu. Sau đó,T và T1 thỏa thuận mua bán chiếc xe trên với giá 11 triệu đồng và hẹn nhau giao dịch tại vườn hoa B, quận B, H.
Khoảng 11h cùng ngày,T đến địa chỉ trên thì T1 đã ngồi chờ ở đây. Sau khi xem xe xong, T1 mua xe máy trên với giá 11.000.000 đồng,T xin thêm 100.000 đồng để bắt xe ôm, T1 đồng ý và trả trực tiếp tiền mặt choT. Sau đó, T1 lấy xe cùng chìa khoá xe đi về nhà và gửi xe tại hầm của Chung cư Rice City Sông Hồng, Thượng Thanh, B, cònT đi về. Đến ngày 08/11/2023, T1 được Cơ quan Cảnh sát điều tra C an quận Đ triệu tập trụ sở làm việc.
Vật chứng thu giữ:
- Thu giữ của Nguyễn ĐìnhT:
+ Số tiền 9.900.000 đồng, đây là tiền Nguyễn ĐìnhT có được do bán chiếc xe trộm cắp mà có.
+ 01 áo khoác, liền mũ, ngực áo cõ chữ “BURBEARY”; 01 quần đùi, màu đen, ống quần bên trái có dòng chữ “TOMMY HIFIGER”; 01 đôi dép lê, màu xám, có xọc màu trắng (đã qua sử dụng). Đây là trang phục Nguyễn ĐìnhT mặc tại thời điểm trộm cắp tài sản ngày 02/11/2023 tại số 18 Nguyễn Thái Học.
- Thu giữ của chị Nguyễn Thị L:
+ 01 chiếc điện thoại iPhone 6s, màu vàng, số Imei 355426073341164, không gắn sim (đã qua sử dụng).
+ 02 video hình ảnh camera tại số 465G Đội Cấn, nội dung ghi lại hành vi Nguyễn ĐìnhT điểu khiển chiếc xe máy Honda Vision trộm cắp được, đến bán chiếc điện thoại iPhone 6s màu trắng vào khoảng 8h36’ ngày 03/11/2023 tại địa chỉ số 465G Đội Cấn.
- Thu giữ của Bùi X T1:
+ 01 chiếc xe máy Honda Vision, màu đen, biển số 29B2-xxxx, số khung RLHJK0352PZ109488, số máy JK03E7809534 (đã qua sử dụng).
+ 01 chìa khóa xe nhãn hiệu Honda, vỏ bọc ngoài màu vàng đen (đã qua sử dụng).
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu xanh đã qua sử dụng, có imeil 1: 865928061424863; imeil2: 865928061424871.
- Thu giữ của chị Nguyễn Thị Hà P: 03 đoạn video clip ghi lại hình ảnhT có hành vi trộm cắp tài sản tại số 18 Nguyễn Thái Học.
Bản Kết luận định giá tài sản số 144/KLĐG-HĐĐGTS ngày 09 tháng 11 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự vụ điều tra kết luận:
“- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng, số IMEI: 355426073341164 không gắn sim, đã qua sử dụng, trị giá 800.000 đồng.
- 01 chiếc xe máy nhãn hiện Honda Vision màu đen, BKS: 29B2-xxxxx, số khung RLHJK0352PZ109488, số máy JK03E7809534, đã qua sử dụng, trị giá 32.000.000 đồng”.
Quá trình điều tra xác định 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng là của anh Nguyễn X T2, 01 chiếc xe máy nhãn hiện Honda Vision màu đen, BKS: 29B2-xxxxx, số khung RLHJK0352PZ109488, số máy JK03E7809534 đã qua sử dụng là của chị Nguyễn Thị Hà P. Ngày 01/12/2023, Cơ quan điều tra ra đã trả lại các tài sản trên cho anh T2 và chị P. Anh T2, chị P đã nhận lại tài sản của mình và không có ý kiến gì.
Tại Cơ quan điều tra, chị Nguyễn Thị L khai không biết nguồn gốc chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàngT mang đến bán là do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Ngoài lần trộm cắp trên,T còn khai nhận đã thực hiện thêm 03 vụ trộm cắp tài sản trước đó. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác định như sau:
Vụ thứ nhất: Ngày 05/10/2023,T khai một mình trộm cắp chiếc xe máy Honda Vision màu đen của chị dâu tên Lan tại thôn Tiền Thôn, xã Văn Môn, Y, B. Sau đó,T mang xe ra H, đăng tin rao bán trên mạng xã hội Facebook.T bán chiếc xe trên cho người không rõ nhân thân, được số tiền 7.500.000 đồng và đã tiêu sài hết.
Quá trình điều tra xác định: Anh Nguyễn Đình Tr (Sinh năm: 1994) và chị Hà P Lan (Sinh năm: 1996, cùng HKTT: Thôn Tiền Môn, Văn Mông, Y, B, là anh trai và chị dâu củaT) khai đã choT 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đen, BKS: 99D1-xxxxx vào cuối tháng 9 năm 2023 và khẳng định không có sự việcT trộm cắp xe máy của anh chị. Qua xác minh, C an xã Văn Môn chưa tiếp nhận đơn tố giác, nguồn tin về tội phạm hoặc thông tin nào liên quan đến vụ việc Nguyễn ĐìnhT trộm cắp xe máy Honda Vision tại địa bàn xã. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lýT về hành vi Trộm cắp tài sản.
Vụ thứ hai: Ngày 21/10/2023,T khai đã trộm cắp 01 chiếc xe máy Honda Dream, màu nâu, biển số 19H3-xxxxx của anh Trần Ngọc C (SN: 2002; Nơi thường trú: Tổ 29, Khu 11, Thanh Miếu, TP.Việt Trì, Th) tại số 5/59/68 đường Mễ Trì, phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, H. Sau đó,T đăng tin rao bán chiếc xe trên mạng xã hội Facebook, bán cho người không rõ nhân thân được số tiền 1.450.000đồng và đã tiêu sài hết.
Quá trình điều tra xác định Nguyễn ĐìnhT đã thực hiện vụ trộm cắp tài sản của anh Trần Ngọc C như sau:
Ngày 21/10/2023,T và anh Trần Ngọc C (Sinh năm: 2002, Nơi ở: Tổ 29 khu 11 Thanh Miếu, thành phố Việt Trì, Th) cùng đến công ty bảo vệ HNK (Địa chỉ: Số 9, lô TT04, khu đô thị Moncity, ngõ 2 Hàm Nghi, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, H) để xin việc làm. Quá trình làm thủ tục,T và anh C được sắp xếp nghỉ ngơi tại số 5/59/68 Mễ Trì, phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, H. Tại đây, lợi dụng lúc anh C đang ngủ say,T lấy chìa khóa chiếc xe máy TEAM màu nâu trắng để cạnh vị trí anh C ngủ rồi mở khóa điều khiển xe tẩu thoát. Khi điều khiển xe đến khu vực bến xe Mỹ Đình,T vào quán điện tử (không nhớ chính xác địa chỉ), đăng nhập vào tài khoản facebook “Nguyễn Văn L” rồi đăng bài rao bán chiếc xe vừa trộm cắp được. Sau đó,T bán chiếc xe trên cho người sử dụng tài khoản facebook “V Toản” tại khu vực đường Nguyễn Hoàng, Nam Từ Liêm, H. DoT đã xóa toàn bộ lịch sử tin nhắn và không nhớ đặc điểm nhận dạng nên không có căn cứ để xác định nhân thân, lai lịch của người sử dụng tài khoản facebook “V Toản”.
Bản Kết luận định giá tài sản số 155/KLĐG-HĐĐGTS ngày 26 tháng 12 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự vụ điều tra kết luận: “01 chiếc xe máy nhãn hiệu TEAM màu nâu, dung tích 97 cm3, sản xuất năm 2001 có số khung 30911010150, số máy 01154650, đã qua sử dụng, trị giá 2.500.000 đồng.” Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu chiếc xe máy nhãn hiện TEAM màu nâu, dung tích 97 cm3, sản xuất năm 2001 có số khung 30911010150, số máy 01154650 (đã qua sử dụng) là anh Trần Ngọc C. Quá trình anh C bịT trộm cắp chiếc xe trên phù hợp với lời khai củaT. Sau khi bị mất trộm chiếc xe trên, anh C đã trình báo cơ quan C an. Ngày 20/12/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy tìm vật đối với chiếc xe trên, đến nay chưa thu hồi được. Anh Trần Ngọc C yêu cầuT bồi thường số tiền 2.500.000 đồng.
Vụ thứ ba: Ngày 23/10/2023,T xin làm thợ xây dựng công T1 xây dựng Trụ sở C an tỉnh Vĩnh Phúc, thuộc phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Khoảng 13h00’ ngày 28/10/2023, tại khu nhà nghỉ của công nhân, bên cạnh công T1 xây dựng, lợi dụng lúc những công nhân khác đang ngủ trưa,T đã trộm cắp 01 chiếc xe máy Honda Wave Rsx, màu đỏ của anh Trần Hữu C (Sinh năm: 1987, HKTT: Thôn Phượng Lâu, xã Việt X, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc). Sau đó,T đã bán chiếc xe trên cho người không quen biết qua mạng xã hội Facebook được số tiền 1.600.000đồng và đã tiêu sài hết.
Cơ quan điều tra C an quận Đ đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Vĩnh Yên để giải quyết theo thầm quyền. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Vĩnh Yên đang giải quyết nguồn tin về tội phạm nêu trên theo quy định pháp luật.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn ĐìnhT và Bùi X T1 đã khai nhận hành vi phạm tội như trên. Lời khai củaT và T1 phù hợp với lời khai của các bị hại, lời khai người làm chứng, người liên quan, kết quả kiểm tra điện thoại thu giữ củaT, T1, vật chứng thu giữ, hiện T1 vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ.
Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 16/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, bị cáo Nguyễn ĐìnhT bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo Bùi X T1 bị truy tố về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa :
Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.
Người bị hại là anh T2, chị P đã nhận lại tài sản của mình, không yêu cầu bồi thường dân sự và xin xét xử vắng mặt.
Người bị hại là anh C yêu cầu bị cáoT bồi thường thiệt hại 2.500.000 đồng là giá trị xe máy bị trộm cắp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị L không có yêu cầu gì về dân sự và xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đ sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo T1 đã tự nguyện giao nộp tài sản phạm tội cho cơ quan điều tra nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáoT liên tiếp thực hiện nhiều hành vi trộm cắp nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 (đối với bị cáoT); khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 65 (đối với bị cáo T1), Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn ĐìnhT từ 22 tháng đến 26 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Bùi X T1 từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.
Các bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Vật chứng:
Số tiền 11.050.000 đồng bị cáoT bán chiếc xe máy Honda Vision và điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng, cơ quan điều tra mới thu giữ được 9.900.000 đồng là tiền thu lợi bất chính cần tịch thu sung quỹ số tiền 9.900.000 đồng. Truy thu số tiền 1.150.000 đồng.
Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu xanh đã qua sử dụng, có imeil 1: 865928061424863; imeil2: 865928061424871 do chiếc điện thoại này bị cáo T1 dùng để trao đổi, mua bán tài sản trộm cắp.
Tịch thu tiêu huỷ 01 áo khoác đen liền mũ, trên áo cõ dòng chữ “BURBEARY” (đã qua sử dụng); 01chiếc quần đùi màu đen, có dòng chữ “TOMMY ” (đã qua sử dụng); 01 đôi dép lê nhựa màu xám, có sọc trắng (đã qua sử dụng).
Về trách nhiệm dân sự:
ChịP và anh T2 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Bị cáoT phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại là anh C 2.500.000 đồng.
Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, các bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo bày tỏ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra C an quận Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của các bị cáo:
Trong hai ngày 21/10/2023 và 03/11/2023, bị cáoT thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu TEAM trị giá 2.500.000đồng của anh Trần Ngọc C, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng trị giá 800.000đồng của anh Nguyễn X T2 và 01 chiếc xe máy nhãn hiện Honda Vision màu đen trị giá 32.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Hà P. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 35.300.000 đồng.
Sau đó, thông qua nhóm hội “mua bán xe không giấy tờ” trên mạng xã hội facebook, bị cáoT đã bán chiếc xe máy Honda Vision cho bị cáo Bùi X T1 với giá 11.000.000 đồng. Bị cáo T1 biết là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn mua lại của bị cáoT.
Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận hành vi của bị cáoT cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo T1 cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tòa án xét xử nghiêm minh vụ án nhằm giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Về nhân thân: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự.
[4].Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáoT liên tiếp thực hiện nhiều hành vi trộm cắp nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Khi bị phát hiện ra hành vi phạm tội, bị cáo T1 đã tự nguyện giao nộp tài sản do phạm tội mà có cho cơ quan điều tra nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Đối với bị cáoT: Sau khi xem xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.
Đối với bị cáo T1: Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo T1 cũng như cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo T1 có địa chỉ nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Trong thời gian được tại ngoại bị cáo không có vi phạm gì, do đó không cần phải cách ly bị cáo T1 ra khỏi xã hội một thời gian mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địaP nơi bị cáo thường trú giám sát và giáo dục cũng đủ để bị cáo có thời gian tu dưỡng rèn luyện bản thân, cải tạo ổn định cuộc sống cũng như để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tài liệu có trong hồ sơ cho thấy các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Tài sản trộm cắp là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng trị giá 800.000đồng của anh Nguyễn X T2 và 01 chiếc xe máy nhãn hiện Honda Vision màu đen trị giá 32.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Hà P, đã được thu hồi trả lại cho anh T2, chị P. Anh T2, chị P không yêu cầu gì.
Đối với chiếc 01 xe máy nhãn hiệu TEAM trị giá 2.500.000đồng bị cáo trộm cắp của anh Trần Ngọc C chưa thu hồi được. Anh C yêu cầu bị cáo bồi thường 2.500.000 đồng, do đó, bị cáoT phải bồi thường cho anh C số tiền 2.500.000đồng.
Đối với chị Nguyễn Thị L người đã mua 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng nhưng không biết là tài sản do trộm cắp. Cơ quan điều tra không đề cập xử lý về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
[8] Về xừ lý vật chứng:
Số tiền 11.050.000 đồng bị cáoT bán chiếc xe máy Honda Vision và điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng, bị cáo đã tiêu sài hết 1.150.000 đồng, cơ quan điều tra mới thu giữ được 9.900.000 đồng, là tiền thu lợi bất chính cần tịch thu sung quỹ số tiền 9.900.000 đồng. Truy thu số tiền 1.150.000 đồng.
Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu xanh đã qua sử dụng, có imeil 1: 865928061424863; imeil2: 865928061424871 thu giữ của bị cáo T1.
Tịch thu tiêu huỷ 01 áo khoác đen liền mũ, trên áo cõ dòng chữ “BURBEARY” (đã qua sử dụng); 01chiếc quần đùi màu đen, có dòng chữ “TOMMY ” (đã qua sử dụng); 01 đôi dép lê nhựa màu xám, có sọc trắng (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáoT.
Theo biên bản bàn giao vật chứng số 77/CQBĐ-CSHS ngày 25/01/2024 của Cơ quan cảnh sát Điều tra C an quận Đ và Giấy nộp tiền ngày 22/01/2024 của Ngân hàng TMCP C thương Việt Nam.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo và người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên ;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (đối với bị cáo T) ; khoản 1 Điều 323 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 (đối với bị cáo T1); Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015.
Căn cứ Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên bố :
Bị cáo Nguyễn ĐìnhT phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn ĐìnhT 22 (hai mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2023.
Bị cáo Bùi X T1 phạm tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ”.
Xử phạt: Bị cáo Bùi X T1 09 (không chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 28/02/2024).
Giao bị cáo Bùi X T1 cho Uỷ ban nhân dân phường Thượng Thanh, quận B, H để giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường Thượng Thanh, quận B, H trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong T1 hợp người bị phạt tù được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
2, Về xử lý vật chứng:
Tịch thu sung quỹ số tiền 9.900.000 đồng thu giữ của bị cáoT. Truy thu số tiền 1.150.000đồng đối với bị cáoT.
Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu xanh đã qua sử dụng, có imeil 1: 865928061424863; imeil2: 865928061424871 thu giữ của bị cáo T1.
Tịch thu tiêu huỷ 01 áo khoác đen liền mũ, trên áo có dòng chữ “BURBEARY” (đã qua sử dụng); 01chiếc quần đùi màu đen, có dòng chữ “TOMMY ” (đã qua sử dụng); 01 đôi dép lê nhựa màu xám, có sọc trắng (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáoT.
Theo biên bản bàn giao vật chứng số 77/CQBĐ-CSHS ngày 25/01/2024 của Cơ quan cảnh sát Điều tra C an quận Đ và Giấy nộp tiền ngày 22/01/2024 của Ngân hàng TMCP C thương Việt Nam.
Các bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
3,Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Nguyễn ĐìnhT phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại là anh Trần Ngọc C 2.500.000 đồng.
Kể từ ngày người có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án chưa thi hành thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định của khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành.
4, Về án phí: Bị cáoT phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo T1 phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại: Anh Trần Ngọc C có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Anh Nguyễn X T2 và chị Nguyễn Thị Hà P vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2024/HS-ST
Số hiệu: | 26/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về