Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2023/TLST - HS, ngày 17/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2023/QĐXXST - HS, ngày 04/12/2023 đối với bị cáo:

- Phạm Bá N (tên gọi khác: Không), sinh ngày 19 tháng 5 năm 1980 tại huyện Q, tỉnh S. Cư trú tại tổ C, phường C, thành phố S, tỉnh S; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Tôn giáo, đảng phái, đoàn thể: Không. Con ông Phạm Nam S, sinh năm 1953 và con bà Đặng Thị L (đã chết), có vợ là Phùng Thị M (đã ly hôn) và có 1 con sinh năm 2000. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: tại bản án số 37/2007/HSST ngày 15/3/2007 của Tòa án nhân dân thị xã S (nay là thành phố S) xử phạt Phạm Bá N 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về Tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); năm 2002 Phạm Bá N bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Năm 2013 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi "Ném gạch, đất đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác", (bị cáo đã chấp hành xong khoản tiền phạt và đã hết thời hạn xử lý vi phạm hành chính, được coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính). Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/8/2023 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người bị hại:

1. Ông Lèo Văn S1, sinh năm 1977, trú tại bản B, phường C, thành phố S, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Anh Lèo Văn D, sinh năm 1996, trú tại bản Nam, xã H, thành phố S, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Chị Đặng Thị N1, sinh năm 1994, trú tại tổ C, phường T, thành phố S, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Anh Đào Việt D1, sinh năm 1992, trú tại tiểu khu A, thị trấn M, huyện M, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1964, trú tại tổ F, phường C, thành phố S, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bà Đào Thị L1, sinh năm 1981, trú tại tổ A, phường C, thành phố S, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Ông Phạm Văn H, sinh năm 1984, trú tại tổ C, phường C, thành phố S, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không chịu khó làm ăn, lười lao động lại muốn có tiền chi tiêu cá nhân, bị cáo Phạm Bá N đã 04 lần thực hiện hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của những người bị hại, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 15/6/2023, bị cáo N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen trắng, biển kiểm soát 26B 1-xxxxx đi từ nhà ở tổ C, phường C, thành phố S đến khu vực bản B, phường C, thành phố S. Khi đến trụ sở công ty P, N quan sát thấy chiếc xe tải nhãn hiệu THACO OLLIN màu xanh, biển kiểm soát 26C-xxxxx của anh Lèo Văn S1, sinh năm 1977, trú tại Bản B, phường C, thành phố S đang đỗ trong khu vực để xe của Công ty P1 thuộc bản Buồn, phường C, thành phố S. Quan sát thấy không có người trông coi, bị cáo để xe mô tô ở ngoài đường rồi đi bộ đến chỗ chiếc xe ô tô đang đỗ. Bị cáo đi lên khu vực đầu xe ô tô phát hiện ở vị trí bên dưới thùng xe có 01 bình ắc quy điện nhãn hiệu GS, loại 12V 100Ah, loại bình ắc quy khô. Bị cáo sử dụng chiếc cờ lê loại 10mm và 01 chiếc cờ lê loại 12mm từ trong túi quần bên trái phía trước chiếc quần đang mặc mà bị cáo mang theo từ trước rồi sử dụng 02 chiếc cờ lê đó để tháo các ốc vít cố định bình ắc quy với thùng xe. Sau khi tháo rời được bình ắc quy thì bị cáo N để ắc quy lên xe mô tô chở về nhà cất giấu. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, N mang bình ắc quy đến cửa hàng buôn bán sắt vụn của ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1964, ở tổ F, phường C, thành phố S bán cho ông K với giá 280.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 02 giờ ngày 05/7/2023, bị cáo mang 03 chiếc cờ lê rồi điều khiển xe mô tô đến khu vực quán hàng nhập khẩu UKIYO tại số C đường L, thuộc tổ A, phường C, thành phố S, tỉnh S. Tại đây, N thấy chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu HYUNDAI NEW PORTER màu trắng, biển kiểm soát 26C - xxxxx của anh Lèo Văn D, sinh năm 1996, trú tại bản Nam, xã H, thành phố S đang đỗ trước quán. Bị cáo đỗ xe mô tô ở sau đuôi xe ô tô tải rồi đi bộ đến cạnh thùng xe, quan sát thấy phía bên phụ của xe có một bình ắc quy nhãn hiệu GS, loại 12V 90Ah được bắt ốc vít cố định vào thùng xe. N sử dụng chiếc cờ lê loại 12mm và chiếc cờ lê loại 10mm để tháo ốc vít ra khỏi vị trí ban đầu. Sau khi lấy được bình ắc quy, N mang để ở đằng trước yên xe mô tô chở về nhà cất giấu. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, bị cáo mang bình ắc quy đến cửa hàng mua bán sắt vụn của ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1964 ở tổ F, phường C, thành phố S bán cho ông K với giá 280.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 01/8/2023, bị cáo N tiếp tục mang theo 04 chiếc cờ lê rồi điều khiển xe mô tô đến khu vực kè suối N thuộc tổ I, phường C, thành phố S, tỉnh S. Khi đến bãi đất trống, bị cáo phát hiện chiếc xe tải nhãn hiệu HYUNDAI MIGHTY II màu trắng, biển kiểm soát 26C- xxxxx của chị Đặng Thị N1, sinh năm 1994, trú tại tổ C, phường T, thành phố S đang đỗ tại bãi đất trống thuộc lô 4B. N1 đỗ xe mô tô ở ngoài đường rồi đi bộ đến cạnh thùng xe phía bên phụ của xe ô tô quan sát thấy 02 bình ắc quy nhãn hiệu "dongnai" loại 12V 90Ah được bắt ốc vít cố định vào thùng xe. N1 sử dụng cờ lê loại 12mm và 10mm để tháo các ốc vít ra. Sau đó, bị cáo mang 02 bình ắc quy để ở đằng trước yên xe mô tô mang về nhà. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, bị cáo mang 02 bình ắc quy nêu trên đi đến cửa hàng mua bán sắt vụn của ông Nguyễn Văn K thuộc tổ F, phường C, thành phố S bán với giá 520.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 02/8/2023, N1 mang theo 04 chiếc cờ lê và điều khiển xe mô tô từ nhà đến khu vực VINCOM S thuộc tổ c, phường Q, thành phố S, tỉnh S. Tại đây, bị cáo phát hiện chiếc xe tải nhãn hiệu KIA 200 màu trắng, biển kiểm soát 26C-115.01 của anh Đào Việt Dũng, sinh năm 1992, trú tại tiểu khu A, thị trấn M, huyện M, tỉnh S đang đỗ ở đầu ngõ đối diện khách sạn P2. N1 đỗ xe mô tô ở gần đuôi xe tải rồi đi đến phía bên ghế phụ của xe tải quan sát thấy bình ắc quy nhãn hiệu "dongnai" loại 12V 100Ah, loại bình ắc quy khô đang gắn vào thùng xe. N1 sử dụng chiếc cờ lê loại 10mm để tháo các ốc vít ra. Sau đó, N1 để bình ắc quy lên xe mô tô chở về nhà. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, N1 mang bình ắc quy đến cửa hàng mua bán sắt vụn của chị Đào Thị L1, sinh năm 1981 trú tại tổ A, phường C, thành phố S bán cho chị L1 với giá 200.000 đồng.

Sau khi chiếm đoạt 05 bình ắc quy trên, bị cáo N1 mang đi bán được tổng số tiền 1.280.000,đ. Toàn bộ số tiền bán được bị cáo N1 đã sử dụng đề tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 04/8/2023 chị Đặng Thị N1 đã có đơn trình báo gửi đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố S, tiếp đó các ngày 29/8/2023 và ngày 5/10/2023 anh Đào Việt Dũng, anh Lèo Văn S1 và anh Lèo Văn D đã gửi đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S đề nghị xác minh, điều tra. Ngay sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S đã tiến hành rà soát, xác minh trên địa bàn và tiến hành thu thập các chứng cứ liên quan đến vụ việc đồng thời triệu tập Phạm Bá N để làm rõ. Tại cơ quan điều tra, N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Công an thành phố S đã thu giữ các vật chứng do bị cáo N giao nộp gồm: 01 cờ lê bằng kim loại màu trắng, trên cờ lê có số 10; 01 cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, một đầu cong, trên cờ lê có số 14; 02 cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, trên cờ lê có số 12.

Ngày 04/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Bá N và tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Bá N tại tổ C, phường C, thành phố S, tỉnh S và tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen trắng, biển kiểm soát 26B 1-xxxxx; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Phạm Văn H; 01 căn cước công dân mang tên Phạm Bá N.

Căn cứ lời khai của N, ngày 04/8/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S đã triệu tập chị Đào Thị L1 để làm việc. Chị L1 thừa nhận ngày 02/8/2023 đã mua của Phạm Bá N 01 bình ắc quy nhãn hiệu "dongnai" loại 12V 100Ah và giao nộp vật chứng cho cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra cũng đã triệu tập ông Nguyễn Văn K đến cơ quan công an để làm việc, ông K đã thừa nhận 3 lần mua 04 bình ắc quy do N mang đến bán.

Ngày 07/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S ra yêu cầu định giá tài sản số 195/YC-ĐCSHS yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố S xác định giá trị còn lại của 02 bình ắc quy điện nhãn hiệu "dongnai" màu đen, loại 12V-90Ah, loại bình ắc quy khô và 01 bình ắc quy điện nhãn hiệu "dongnai" màu đen, loại 12V-100Ah, loại bình ắc quy khô mà chị L1 giao nộp.

Tại bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 31/KL-HĐĐGTS ngày 10/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố S, kết luận: Tổng giá trị trung bình của 03 bình ắc quy tại thời điểm bị chiếm đoạt là 5.766.000,đ (Năm triệu bảy trăm sáu mươi sáu nghìn đồng), trong đó 02 bình ắc quy điện nhãn hiệu "dongnai" loại 12V-90Ah có giá trị còn lại là 3.633.000,đ (Ba triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn đồng), 01 bình ắc quy điện nhãn hiệu "dongnai" loại 12V-100Ah có giá trị còn lại là 2.133.000,đ (Hai triệu một trăm ba mươi ba nghìn đồng).

Ngày 26/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S đã ra yêu cầu định giá tài sản số 715/YC-ĐCSHS yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố S xác định giá trị còn lại của 01 bình ắc quy điện nhãn hiệu "GS", loại 12V-90Ah, loại bình ắc quy nước bị chiếm đoạt ngày 05/7/2023 và 01 bình ắc quy điện nhãn hiệu "GS", loại 12V-100Ah, loại bình ắc quy khô, bị chiếm đoạt ngày 15/6/2023.

Tại bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 46/KL-HĐĐGTS ngày 31/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố S, kết luận: Tổng giá trị trung bình của tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.600.000,đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng), trong đó 01 bình ắc quy điện nhãn hiệu "GS" loại 12V-90Ah có giá trị còn lại là 1.233.000,đ (Một triệu hai trăm ba mươi ba nghìn đồng), 01 bình ắc quy điện nhãn hiệu "GS" loại 12V-100Ah có giá trị còn lại là 1.367.000,đ (Một triệu ba trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).

Tổng giá trị 05 bình ắc quy do bị cáo Phạm Bá N thực hiện hành vi trộm cắp được của các bị hại có giá trị còn lại là 8.366.000,đ (Tám triệu ba trăm sáu mươi sáu ngàn đồng).

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội đến nay, bị cáo N chưa bồi thường được cho những người bị hại khoản tiền nào. Những người bị hại anh Lèo Văn S1, anh Lèo Văn D, chị Đặng Thị N1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản không thu hồi được. Trong quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đào Thị L1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho chị số tiền chị đã bỏ ra mua bình ắc quy do bị cáo mang đến bán nhưng trong quá trình chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, chị L1 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền chị đã yêu cầu nữa.

Đối với ông Nguyễn Văn K, sau khi mua được 04 bình ắc quy do bị cáo N1 mang đến bán, ông K cũng đã bán cho hai người đàn ông không quen biết, hiện 04 bình ắc quy trên không thu hồi lại được và ông K cũng không yêu cầu bị cáo phải hoàn lại tiền cho ông.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Bá N thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải và mong muốn những người bị hại tha thứ cho hành vi phạm tội của mình.

Do có hành vi trên, tại bản cáo trạng số: 561/CT - VKSTP, ngày 16/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố bị cáo Phạm Bá N về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Bá N phạm tội Trộm cắp tài sản.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Phạm Bá N từ 18 đến 24 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 cờ lê bằng kim loại màu trắng, trên cờ lê có số 10; 01 cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, một đầu cong, trên cờ lê có số 14; 02 cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, trên cờ lê có số 12.

- Trả lại cho anh Đào Việt Dũng 01 bình ắc quy màu đen, có tay cầm bằng cao su, nhãn hiệu “dongnai”, loại 12V - 100Ah.

- Trả lại cho anh Phạm Văn H 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRUS, màu đen trắng, BKS 26B1 xxxxx, yên xe rách, có 1 gương chiếu hậu, xe đã cũ qua sử dụng và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 08xxxxx mang tên Phạm Văn H.

- Trả lại cho bị cáo N căn cước công dân mang tên Phạm Bá N.

Về trách nhiệm dân sự: áp dụng điều 48 Bộ luật Hình sự; điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự:

- Buộc bị cáo N phải bồi thường cho: anh Lèo Văn S1 1.367.000,đ; anh Lèo Văn D 1.233.000,đ; chị Đặng Thị N1 3.633.000,đ.

- Chấp nhận chị Đào Thị L1 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền chị đã mua 01 bình ắc quy.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố S, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về hoạt động điều tra, truy tố, đồng thời đã giải thích, tạo điều kiện để bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đúng, đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Những người bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng đều xin vắng mặt tại phiên tòa có lý do, các ý kiến của những người bị hại và người hên quan có đầy đủ trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của những người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về hành phạm tội của bị cáo: Trong các ngày 15/6/2023, 05/7/223, 01/8/2023 và ngày 02/8/2023 bị cáo N1 đã 04 lần thực hiện hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt 05 bình ắc quy của những người bị hại Lèo Văn S1, Lèo Văn D, Đặng Thị N1 và Đào Việt D1 để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, tổng giá trị tài sản còn lại mà bị cáo N1 đã chiếm đoạt là 8.633.000,đ.

Xét tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của cơ quan Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau: Đơn trình báo mất trộm tài sản của những người bị hại; Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 31/KL - HĐĐGTS, ngày 10/8/2023, kết luận số 46/KL - HĐĐGTS, ngày 31/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố S; Các tài liệu và lời khai nhận tội của bị cáo; Sơ đồ, bản ảnh hiện trường; Lời khai của người bị hại, những người có quyền lợi liên quan; các file video ghi lại hình ảnh, diễn biến hành vi bị cáo chiếm đoạt chiếc tài sản; Các tài liệu về việc tạm giữ, giao nộp tài sản và các tài liệu khác liên quan có trong hồ sơ vụ án.

Với các căn cứ chứng minh trên có đủ cơ sở kết luận Phạm Bá N đã phạm tội Trộm cắp tài sản tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Phạm Bá N đã trực tiếp lén lút bí mật 04 lần chiếm đoạt tài sản của những người bị hại, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 8.633.000,đ. Hành vi của bị cáo là tình tiết định tội, đã phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt đến 03 năm tù, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, gây hoang mang dư luận trong quần chúng nhân dân.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, tại bản án số 37/2007/HSST ngày 15/3/2007 của Tòa án nhân dân thị xã S (nay là thành phố S) xử phạt Phạm Bá N 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về Tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); năm 2002 bị cáo Phạm Bá N bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Năm 2013 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi "Ném gạch, đất đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác", (bị cáo đã chấp hành xong khoản tiền phạt và đã hết thời hạn xử lý vi phạm hành chính, được coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong 04 lần thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, thì ngày 01/8/2023 bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 02 bình ắc quy khô nhãn hiệu “dongnai”, loại 12V 90Ah của chị Đặng Thị N1 có giá trị 3.633.000,đ và ngày 02/8/2023 bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 bình ắc quy khô, nhãn hiệu “dongnai”, loại 12V 100Ah của anh Đào Việt Dũng có giá trị 2.133.000,đ, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần, theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Bị cáo có đủ năng lực hành vi dân sự, có sức khỏe nhưng lười lao động, không chịu khó tu trí làm ăn, rèn luyện bản thân, căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bảo đảm biện pháp cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nhằm mục đích phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung - Phạt tiền: Xét điều kiện hoàn cảnh bị cáo khó khăn, không có công ăn việc làm ổn định, không tài sản có giá trị, việc áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) khó có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án đã thu giữ:

[6.1] Đối với 01 cờ lê bằng kim loại màu trắng, trên cờ lê có số 10; 01 cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, một đầu cong, trên cờ lê có số 14; 02 cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, trên cờ lê có số 12. Đây là công cụ, dụng cụ phạm tội và không có giá trị sử dụng, do đó cần tịch thu tiêu hủy, theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6.2] Đối với 01 bình ắc quy màu đen, có tay cầm bằng cao su, nhãn hiệu “dongnai”, loại 12V - 100Ah. Xác định đây là tài sản của anh Đào Việt D1 do bị cáo N1 trộm cắp được vào ngày 02/8/2023 và đem bán cho chị Đào Thị L1 và cơ quan công an đã thu giữ được, do đó cần trả lại cho anh D1 quản lý, sở hữu, sử dụng, theo quy định tại khoản 2 điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6.3] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRUS, màu đen trắng, BKS 26B1 xxxxx, yên xe rách, có 1 gương chiếu hậu, xe đã cũ qua sử dụng và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 08xxxxx mang tên Phạm Văn H. Xác định số tài sản trên là của anh Phạm Văn H, là em trai của bị cáo, anh H đi làm ăn xa không có ở nhà nên cho bị cáo mượn chiếc xe và giấy tờ trên để đi lại, việc bị cáo sử dụng số tài sản trên vào hành vi phạm tội anh H không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do đó cần trả lại số tài sản trên cho anh H quản lý, sở hữu, sử dụng là phù hợp với quy định theo khoản 2 điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6.4] Đối với 01 căn cước công dân số 03408002xxxxx, mang tên Phạm Bá N, do Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ C cấp ngày 27/6/2021. Đây là giấy tờ định danh cá nhân của bị cáo, do đó cần trả lại cho bị cáo N quản lý, sử dụng.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản đến nay, bị cáo chưa bồi thường được thiệt hại cho những người bị hại Lèo Văn S1, Lèo Văn D, Đặng Thị N1, tài sản của những người bị hại trên không thu hồi lại được. Những người bị hại anh S1, anh D và chị N1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Căn cứ kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, cần áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; các điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự: buộc bị cáo phải có trách nhiệm, nghĩa vụ bồi thường cho:

- Anh Lèo Văn S1 số tiền 1.367.000,đ.

- Anh Lèo Văn D số tiền 1.233.000,đ.

- Chị Đặng Thị N1 số tiền 3.633.000,đ.

Đối với chị Đào Thị L1, là người đã mua 01 bình ắc quy do bị cáo trộm cắp được của anh D1 với giá 200.000,đ, chiếc bình ắc quy chị L1 mua của bị cáo chị đã giao nộp cho cơ quan công an, trong quá trình điều tra chị L1 đã yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 280.000,đ, tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, chị L1 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, xét thấy yêu cầu của chị L1 là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, không trái quy định của pháp luật, do đó cần chấp nhận yêu cầu của chị L1 và Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Đối ông Nguyễn Văn K và chị Đào Thị L1, là người đã mua các bình ắc quy do bị cáo trộm cắp được mang đến bán, tuy nhiên cả ông K và chị L1 đều không biết những bình ắc quy trên là do bị cáo phạm tội mà có, khi bán bình ắc quy cho ông K và chị L1, bị cáo nói dối là của bị cáo không dùng nên đi bán, ông K và chị L1 cũng không hứa hẹn với bị cáo về việc bị cáo đi lấy trộm tài sản về bán, do đó không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[9] Về án phí: Do hành vi phạm tội của mình nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào khoản 1 điều 173; đim s khoản 1 điều 51; đim g khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Bá N phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt bị cáo Phạm Bá N 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/8/2023.

Về vật chứng vụ án: áp dụng đim a khoản 1, khoản 2 điều 47 Bộ luật Hình sự; đim a, c khoản 2; đim b khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) cờ lê bằng kim loại màu trắng, trên cờ lê có số 10, dài 14,1 cm; 01 (Một) cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, một đầu cong, trên cờ lê có số 14, dài 11 cm; 01 (Một) cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, một đầu cong, trên cờ lê có số 12, dài 10,5cm; 01 (Một) cờ lê đã bị cắt một phần bằng kim loại màu trắng, một đầu cong, trên cờ lê có số 12, dài 11,5cm;

- Trả lại cho anh Đào Việt Dũng 01 (Một) bình ắc quy màu đen, có tay cầm bằng cao su, nhựa màu đỏ nhãn hiệu “dongnai”, loại 12V - 100Ah, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho anh Phạm Văn H 01 (Một) xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRUS, màu đen trắng, BKS 26B1 xxxxx, số khung: 041996, số máy: 041647, yên xe rách, có 1 gương chiếu hậu bên trái, nút hộp xíc xe không có, xe đã cũ qua sử dụng và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 08xxxxx mang tên Phạm Văn H, biển số đăng ký 26B1 xxxxx, do công an tỉnh S cấp ngày 08/11/2013.

- 01 căn cước công dân số 03408002xxxxx, mang tên Phạm Bá N, do Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ c cấp ngày 27/6/2021.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/12/2023 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S và Cơ quan Công an thành phố S).

Về trách nhiệm dân sự: áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; các điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Phạm Bá N phải có trách nhiệm, nghĩa vụ bồi thường cho:

- Anh Lèo Văn S1 số tiền 1.367.000,đ (Một triệu, ba trăm sáu mươi bảy ngàn đồng).

- Anh Lèo Văn D số tiền 1.233.000,đ (Một triệu, hai trăm ba mươi ba ngàn đồng).

- Chị Đặng Thị N1 số tiền 3.633.000,đ (Ba triệu, sáu trăm ba mươi ba ngàn đồng).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1, khoản 3 điều 21, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Bá N phải chịu 200.000,đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 311.000,đ (Ba trăm mười một ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Phạm Bá N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 20/12/2023). Những người bị hại, người có quyền lợi liên quan (vắng mặt tại phiên tòa) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.

K từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại điều 357, điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về