Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 6 năm 2023 tại Điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai và Điểm cầu thành phần Công an huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã xét xử sơ thẩm công khai (theo hình thức trực tuyến) vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2023/QĐXXST-HS, ngày 07/6/2023 đối với bị cáo:

ADRơng Y S (tên gọi khác: ADRong Y S), sinh ngày 30/8/1996, tại: Huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

Nơi cư trú: Buôn T, xã H, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; Nghề nghiệp: Làm nông;

Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Gia Rai; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nay Y T và bà ADRong H’P; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án: 02- Tại Bản án số 88/2017/HSST, ngày 26/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện EaH’Leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Ngày 15/12/2018 chấp hành xong hình phạt tù, chưa thi hành tiền án phí hình sự sơ thẩm. Năm 2019 phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo xử phạt 01 năm 03 tháng tù theo Bản án số 39/2021/HSST, ngày 06/7/2021. Ngày 11/9/2022 chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Không. Bị bắt phạm tội quả tang và tạm giữ ngày 04/4/2023, tạm giam ngày 10/4/2023 đến nay. Có mặt.

-Bị hại:

Ông Vũ Văn Q, sinh năm 1971 Nơi cư trú: Thôn X, xã P, huyện S, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Người phiên dịch tiếng Gia Rai: Bà Nay H’Chim, cán bộ hưu trí. Địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn Chư Sê, Chư Sê, Gia Lai.

Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 04/04/2023 ADRơng Y S đi xe đò từ huyện H, tỉnh Đắk Lắk đến xã P, huyện S, tỉnh Gia Lai, xuống xe tại thôn X, xã P huyện S, tỉnh Gia Lai. S đi bộ từ đường Quốc lộ 14 vào trong làng R, xã P. Khi vào đến trong làng thì S nhìn thấy 01 xe mô tô, Biển kiểm soát 81F4- 4901 của ông Vũ Văn Q đang dựng bên lề đường và có để sẵn chìa khóa, không có người trông coi nên S đã nảy sinh ý định và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản chiếc xe mô tô trên. Khi nghe thấy tiếng xe mô tô nổ ông Vũ Văn Q đã đi ra kiểm tra và phát hiện Săm lấy trộm chiếc xe mô tô của mình nên đã truy hô, đuổi theo và báo Công an xã P, huyện S. Khi ông Q và người dân đuổi theo được khoảng 01km thì bắt được ADRơng Y S.

Ngày 07/4/2023, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Chư Sê đã ra kết luận định giá tài sản số: 08, kết luận: 01 (một) xe mô tô BKS: 81F4 - 4901, nhãn hiệu INCO, đã qua sử dụng, mua và sử dụng từ năm 2000, có giá trị là 3.067.000đ (Ba triệu không trăm sáu mươi bảy ngàn đồng).

Tại Bản Cáo trạng số: 23/CTr-VKS ngày 26/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo ADRơng Y S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo ADRơng Y S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị ADRơng Y S từ 04 đến 05 năm tù; buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Sê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận phù hợp với lời khai của bị hại, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 09 giờ ngày 04/04/2023 Adrơng Y S có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô, Biển kiểm soát 81F4- 4901 của ông Vũ Văn Q đang dựng bên lề đường tại làng R, xã P, huyện S, tỉnh Gia Lai có trị giá là 3.067.000 đồng. Hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại thời điểm phạm tội bị cáo đang có 02 (hai) tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nên hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản ” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê truy tố là đúng người, đúng tội.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ sở hữu tài sản của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo vệ đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[5.] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì về phần dân sự nên miễn xét.

[6]. Về vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô BKS: 81F4 - 4901, nhãn hiệu INCO, đã qua sử dụng, là tài sản hợp pháp của ông Vũ Văn Q. Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Sê đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả tài sản trên cho ông Vũ Văn Q là có căn cứ, đúng pháp luật.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo ADRơng Y S (tên gọi khác: ADRong Y S) phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo ADRơng Y S (tên gọi khác: ADRong Y S) 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt phạm tội quả tang 04/4/2023.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền khánh cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về