Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 25 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2023 đối với:

- Bị cáo Nguyễn Thanh L, sinh năm 1992; tên gọi khác: L; nơi sinh: tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công Giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1970; có vợ Trần Thị Cẩm V, sinh năm 1989 và có 01 người con, sinh năm 2023; tiền án: 04 lần. Ngày 20/5/2009, Tòa án nhân dân quận 6, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, Ngày 24/5/2010, Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 02 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, Ngày 29/6/2010, Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 01 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, Ngày 22/01/2016, Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 06 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong ngày 21/8/2021). tiền sự: Không; tạm giữ: Ngày 23/3/2023; tạm giam: Ngày 01/4/2023.

Bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Nguyễn Hoài V1, sinh năm 1985, có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Võ Hoàng S, sinh năm 1984, có đơn xin vắng mặt. Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng: Phan Thanh V2, sinh năm 1975, vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh L đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Đến khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 09/01/2023, L đang ở nhà thuê tại ấp A, xã A, huyện T, nảy sinh ý định trộm gà bán lấy tiền tiêu xài, Long lượm 02 bao loại đựng lúa, tại bãi rác trước nhà, điều khiển xe mô tô biển số 59X2 – 254.xx, đi đến gần công trình đang xây dựng thấy cái túi màu trắng có quay nằm trên đường, Long lượm lên bên trong có 01 cây kiềm cộng lực, 01 cây kéo. Tiếp tục, L điều khiển xe đến nhà Nguyễn Hoài V1 tại ấp A, xã A, cầm 02 cái bao, đột nhập vào sàn nhà, mở cửa chuồng gà bắt 05 con gà trống bỏ vào 02 cái bao, nhanh chóng tẩu thoát đến đầu đường đal giáp với tuyến Quốc lộ C, L không đội mũ bảo hiểm, bị lực lượng Công an xã A tuần tra phát hiện ra tín hiệu dừng xe, L điều khiển xe bỏ chạy, lực lượng Công an truy đuổi tới cụm dân cư ấp A, L bị ngã xe, bỏ lại xe mô tô cùng tang vật, chạy bộ T1, biết bị phát hiện L bỏ trốn đi Long An. Công an xã A tiến hành thu giữ 04 con gà trống, còn 01 con gà trống Phan Thanh Vũ bắt được.

Đến khoảng 06 giờ ngày 10/01/2023, Nguyễn Hoài V1 phát hiện bị mất 05 con gà, biết Phan Thanh V2 bắt được 01 con gà nên đến xin nhận lại. Công an xã A tạm giữ 04 con gà trống nên V2 đến trình báo, Công an xã A tiến hành kiểm tra trọng lượng, đặc điểm của 05 con gà trống.

Đến ngày 23/3/2023, Nguyễn Thanh L về nhà, Công an xã A tiến hành mời L làm việc, L thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số  59X2-254.xx xe tay ga, màu xám, nhãn hiệu SUZUKI, đã qua sử dụng; 01 túi màu trắng có quay; 01 kiềm công lực màu xanh – đen – xám, dài 18 cm, nhãn hiệu CY; 01 cây kéo sắt màu đen, dài 9cm, nhãn hiệu KL; 05 con gà trống, tổng trọng lượng 12,5 kilôgam.

Đối với 02 cái bao, Nguyễn Thanh L dùng làm việc phạm tội, cơ quan điều tra không thu giữ được và đã truy tìm nhưng không được nên không có cơ sở xem xét xử lý.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số: 08/KL-ĐGTS, ngày 29/3/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp, kết luận: 05 con gà các loại nêu trên, tổng trọng lượng 12,5kg, giá trị định giá là 110.000/1kg. 12,5 kg x 110.000 đồng/1kg = 1.375.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 26/CT-VKS-TN ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Nông đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phân tích các tình tiết cấu thành tội phạm và khẳng định cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L, phạm tội “Trộm cắp tài sản” mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: Giữ nguyên theo Cáo trạng.

- Bị cáo Nguyễn Thanh L khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” như nội dung cáo trạng đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo không tham gia tranh luận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc ngày 10/01/2023 của Công an xã A và Bản ảnh; Bản ảnh kiểm tra trọng lượng gà bị mất trộm; Kết luận định giá tài sản số: 08/KL-ĐGTS, ngày 29/3/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng toàn bộ chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Thanh L đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Tiếp tục, đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 09/01/2023, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 59X2 – 254.76 đến nhà Nguyễn Hoài V1 tại ấp A, xã A, cầm 02 cái bao, đột nhập vào sàn nhà, mở cửa chuồng gà bắt trộm 05 con gà trống bỏ vào 02 cái bao, nhanh chóng tẩu thoát theo Kết luận định giá tổng cộng 1.375.000 đồng, tuy không đủ định lượng xử lý hình sự nhưng bị cáo đã có tiền án nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác, gây mất ổn định an ninh trật tự ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức hình phạt theo điều luật quy định thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Hình phạt bổ sung: Xét thấy, bản thân bị cáo làm thuê thu nhập không ổn định nên không áp dụng.

[4] Quyền sở hữu tài sản hợp pháp của mỗi người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, bất kỳ ai xâm phạm đến tài sản của người khác trái pháp luật sẽ bị trừng trị. Tình hình tội phạm về trộm cắp tài sản và hậu quả gây mất an ninh trật tự xã hội hiện nay, gây phẩn nộ trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo có đủ năng lực hành vi nhận thức được điều này nhưng vì lười lao động muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân. Qua đó, thấy được ý thức xem thường pháp luật của bị cáo nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Ngoài ra, bị cáo đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không biết sửa đổi bản thân trở thành công dân tốt mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” nên xem xét bản án nghiêm khắc khi lượng hình.

Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính và là thành phần lao động phổ thông nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình Sự. Tình tiết tăng nặng:

Không.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại Nguyễn Hoài V1 đã nhận lại đủ 05 con gà bị mất trộm do công an trao, không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[7] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô biển số  59X2-254.xx xe tay ga, màu xám, nhãn hiệu SUZUKI, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thanh L khai mua lại xe mô tô trên của Võ Hoàng S với giá 1.500.000 đồng, không có giấy xe, Võ Hoàng S khai xe có do người em tên H cho vào năm 2018. Tuy nhiên, theo Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 12/4/2023 của Công an huyện T trả lời không tìm thấy dữ liệu tra cứu xe mô tô biển số 59X2- 254.xx. Xét thấy, cần xác định rõ nguồn gốc đối với xe mô tô trên nên giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T tiếp tục quản lý, xác minh làm rõ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 túi màu trắng có quay; 01 kiềm công lực màu xanh – đen – xám, dài 18 cm, nhãn hiệu CY; 01 cây kéo sắt màu đen, dài 9cm, nhãn hiệu KL. Quá trình điều tra, tất cả vật chứng này bị cáo L khai lượm mà có, Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng không được. Xét thấy, các vật chứng trên do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, không có chủ sở hữu và không còn giá trị nên tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 05 con gà trống, tổng trọng lượng 12,5 kilôgam. Quá trình điều tra trả lại cho bị hại nhận lại xong nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lư và sử dụng án phí và lệ phí a án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 23 tháng 3 năm 2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.1. Giao Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T, tỉnh Đồng Tháp quản lý, xác minh xử lý theo quy định pháp luật: 01 (một) xe mô tô biển số  59X2-254.xx xe tay ga, màu xám, nhãn hiệu SUZUKI, đã qua sử dụng.

2.2. Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) túi màu trắng có quay; 01 (một) kiềm công lực màu xanh – đen – xám, dài 18 cm, nhãn hiệu CY; 01 (một) cây kéo sắt màu đen, dài 9cm, nhãn hiệu KL.

(Tất cả vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Thanh L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về