Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH G

BẢN ÁN 26/2021/HSST NGÀY 10/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST – HS ngày 26 tháng 5 năm 2021, đối với:

- Bị cáo: Rmah T, sinh ngày 01/01/2004 tại G; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Ia Sa, xã H’Bông, huyện C, tỉnh G; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 00/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Jrai; Tôn giáo: Không; con ông Nay N, sinh năm: 1979, con bà Rmah U, sinh năm: 1986; Gia đình bị cáo có 09 anh em. Bị cáo Rmah T là con thứ hai trong gia đình. Hiện cha, mẹ đang sinh sống tại Thôn Ia Sa, xã H’Bông, huyện C, tỉnh G. Tiền sự: Ngày 06/3/2021 có hành vi trộm cắp tài sản tại Thôn Ia Sa, xã H’Bông, huyện C, tỉnh G bị Công an xã H’Bông, huyện C ra Quyết định xử phạt số: 07/QĐ- XPHC, ngày 11/3/2021 với số tiền 750.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, tiền án: Không.

Ngày 12/3/2021 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ra tại Thôn Ia sa, xã H’Bông, huyện C, tỉnh G. Sau đó bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo hiện đang tại ngoại. (Có mặt).

- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo: Ông Nay N, sinh năm: 1979 và bà Rmah U, sinh năm: 1980; Địa chỉ: Thôn Ia Sa, xã HBông, huyện C, tỉnh G. (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Bùi Thị P – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh G. (Có mặt).

- Bị hại: Bà Ngô Thị T, sinh năm: 1966; Địa chỉ: Thôn Ia Sa, xã HBông, huyện C, tỉnh G. (Vắng mặt).

- Người phiên dịch tiếng Jrai: Bà Nay H’C – Cán bộ Hưu trí Thị trấn C, huyện C, tỉnh G. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

1. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau:

Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 12/3/2021, Rmah T đi bộ một mình từ nhà đến khu vực rẫy của bà Ngô Thị T (sinh năm: 1966) ở Thôn Ia Sa, xã H’Bông, huyện C, tỉnh G thì phát hiện thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại: Ware RSX, số khung: RLHJA3206EY085063, số máy: JA32E 1180351, Biển kiểm soát: 81P1 - 200.46 của bà Thúy dựng ven đường (lúc này bà Thúy đang đi làm trong rẫy), trên xe mô tô có chìa khóa, không có người trong coi, Rmah T nảy sinh ý định trộm cắp và dùng tay mở khóa xe mô tô, khởi động máy rồi điều khiển xe mô tô để tẩu thoát. Trên đường đi Rmah T dừng xe mô tô lại mở cốp xe lấy số tiền 1.200.000 đồng, 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy bảo hiểm xe mô tô, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 thẻ ngân hàng Vietcombank đứng tên Ngô Thị T. Sau đó, Rmah T điều khiển xe mô tô đi bán nhưng không bán được, nên đưa xe mô tô về cất giấu trong vườn mía tại Thôn Ia Sa, xã H’Bông còn số tiền 1.200.000 đồng Rmah T tiêu xài cá nhân hết; 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy bảo hiểm xe mô tô, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 thẻ ngân hàng Vietcombank, Rmah T làm rơi tại khu vực rẫy thuộc Thôn Ia Sa, xã H’Bông. Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, biết Cơ quan Công an đang điều tra, Rmah T nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên đến Cơ quan Công an đầu thú, giao nộp xe mô tô trên.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, bị cáo Rmah T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 16/KL-HĐĐGTS ngày 24/03/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình Sự huyện C kết luận:

+ 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại: Ware RSX, số khung: RLHJA3206EY085063, số máy: JA32E 1180351, Biển kiểm soát: 81P1 - 200.46, có giá trị là: 10.320.000đ (Mười triệu, ba trăm, hai mươi nghìn đồng).

Vậy tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt vào ngày 12/3/2021 của bà Ngô Thị T là 11.520.000 đồng (trong đó giá trị chiếm đoạt của chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 81P1 - 200.46 là 10.320.000 đồng; số tiền 1.200.000 đồng bị cáo chiếm đoạt trông cốp xe).

3. Tại Bản cáo trạng số 26/CT–VKS ngày 11/5/2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh G đã truy tố bị cáo Rmah T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Rmah T về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình sự: Đề nghị áp dụng dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 90, 91, 98 và Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Rmah T mức án từ 06 đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bị cáo vào trại chấp hành án.

Về dân sự: Bà Ngô Thị T đã nhận lại số tiền là 1.200.000 đồng do Rmah T đã tự nguyện tác động gia đình bồi thường cho bà Thúy, bà Thúy không yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về vật chứng: Đối với xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại: Ware RSX, số khung: RLHJA3206EY085063, số máy: JA32E 1180351, Biển kiểm soát: 81P1 - 200.46, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Ngô Thị T, bà Thúy đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

- Đối với 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy bảo hiểm xe mô tô, 01 giấy Chứng minh nhân dân, 01 thẻ ngân hàng Vietcombank đều mang tên Ngô Thị T. Sau khi trộm cắp, Rmah T làm rơi ở khu vực rẫy cà phê thuộc Thôn IaSa, xã H’Bông, huyện C. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, truy tìm nhưng không tìm thấy. Bà Ngô Thị T không yêu cầu bị cáo bồi thường đối với tải sản là các giấy tờ bị mất nên nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo: Thống nhất về tội danh của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Rmah T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại để khắc phục hậu quả, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, khi phạm tội là người chưa thành niên, bị cáo không có trình độ học vấn, cư trú vùng đặc biệt khó khăn nên khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử bị cáo Rmah T mức hình phạt thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Còn các vấn đề khác người bào chữa không có ý kiến gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:

Bị cáo Rmah T: Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo rất hối hận vì việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Xét thấy lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáoRmah T phạm tội như sau:

Vào lúc 08 giờ 30 phút, ngày 12/03/2021 tại Thôn Ia Sa, xã H’Bông, huyện C, tỉnh G bị cáo Rmah T đã trộm cắp 01 xe mô tô, biển kiểm soát 81P1- 200.46 có trị giá 10.320.000 đồng và trong cốp xe mô tô có số tiền 1.200.000 đồng của bà Ngô Thị T. Vậy tổng giá trị tài sản mà Rmah T đã trộm cắp của bà Ngô Thị T có tổng giá trị là 11.520.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, bị cáo biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì muốn kiếm tiền một cách bất chính nên đã cố tình lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô, biển kiểm soát 81P1- 200.46 của bà Ngô Thị T có trị giá 10.320.000 đồng và trong cốp xe mô tô có số tiền 1.200.000 đồng. Viện kiểm sát nhân dân huyện C quyết định truy tố ra trước Tòa án để xét xử đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết.

[3]. Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy rằng:

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy rằng bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét về nhân thân bị cáo thì thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản: Ngày 06/3/2021 có hành vi trộm cắp tài sản tại Thôn Ia Sa, xã H’Bông, huyện C, tỉnh G và bị Công an xã HBông, huyện C ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 07/QĐ-XPHC, ngày 11/3/2021 của Công an xã H’Bông đối với Rmah T số tiền 750.000 đồng.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại với số tiền 1.200.000 đồng. Bị cáo sau khi phạm tội đã ra đầu thú, khi phạm tội là người chưa thành niên, bị cáo không có trình độ học vấn, cư trú vùng đặc biệt khó khăn nên khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình sự cho các bị cáo theo định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Ngô Thị T đã nhận số tiền 1.200.000 đồng do mẹ bị cáo là bà Rmah U bồi thường cho bà Thúy thay cho bị cáo. Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Tại phiên tòa, mẹ bị cáo là bà Rmah U không yêu cầu bị cáo Rmah T bồi thường lại cho bà số tiền 1.200.000 đồng mà bà đã bồi thường cho bị hại bà Ngô Thị T nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5]. Về vật chứng:

- Đối với xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại: Ware RSX, số khung: RLHJA3206EY085063, số máy: JA32E 1180351, Biển kiểm soát: 81P1 - 200.46, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Ngô Thị T, bà Thúy đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

- 01 (Một) giấy đăng ký xe mô tô, 01 (Một) giấy bảo hiểm xe mô tô, 01 (Một) giấy Chứng minh nhân dân, 01 (Một) thẻ ngân hàng Vietcombank đều mang tên Ngô Thị T. Sau khi trộm cắp, Rmah T làm rơi ở khu vực rẫy cà phê thuộc Thôn IaSa, xã H’Bông, huyện C. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, truy tìm nhưng không tìm thấy đồng thời bị hại cũng không có yêu cầu gì đối với những giấy tờ trên nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6]. Về nh phạt bổ sung: Xét bị cáo khi phạm tội là người chưa thành niên, bị cáo không có nghề nghiệp, việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Rmah T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 90, Điều 91, Điều 98 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Rmah T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án:

Buộc bị cáo Rmah T phải chịu 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo, người đại diện theo pháp luật của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2021/HSST

Số hiệu:26/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Prông - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về