TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 261/2022/HS-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 147/2022/HSST ngày 06 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 262/2022/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022 và Thông báo về việc hoãn phiên tòa số 46/TB-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:
Võ Thanh S, sinh năm: 1988, tại Bến Tre; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: đường X Tổ 1, Khu phố Y, phường Z, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Tài xế; con ông Võ Văn N (©) và bà Cao Thị L, sinh năm 1953; bị cáo là con thứ tư trong gia đình có 04 anh chị em; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/01/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Trần Xuân T, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Khu phố K, phường M, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đặng T, sinh năm 1979.
Địa chỉ: xã T, huyện L, tỉnh Bình Dương (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 00 ngày 01/01/2022, Võ Thanh S đang ở nhà thì nhận được điện thoại số 0939.570.874 của Nguyễn Văn P gọi vào số điện thoại của S số 0908.201.344, rủ S đi làm (S biết là đi trộm cắp tài sản do trước đó P đã rủ S mấy lần nhưng S không đi) S đồng ý. Khoảng 10 phút sau, P điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu đỏ - đen (không nhớ rõ biển số) đến nhà trọ của S tại đường X Tổ 1, Khu phố Y, phường Z, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh thì S đi ra. P chở S ngồi sau, trên đường đi S hỏi P “xe này sao?” P trả lời “xe này để ở bãi đất trống, mày cứ lên chạy đi tao cho tiền”, S hỏi “xe này lấy trộm hả?” P trả lời “Ừ, mày cứ chạy không sao đâu, ở đó không có ai hết, mày cứ yên tâm đi đừng lo, lấy về bán tao chia mày phần nửa”. P chở S đến trước địa chỉ: đường B, khu phố C, phường D, thành phố Thủ Đức (là nhà của anh Toàn) phát hiện xe ô tô biển số 5*C-5**.*6 của anh Trần Xuân T đang đậu ở bãi đất trống kế bên (không có người trông coi, xe không khóa, chìa khóa cắm ở ổ công tắc điện của xe, các giấy tờ liên quan đến xe ô tô anh T để ở bên dưới ghế ngồi của bên phụ xe ô tô), P mượn điện thoại của S gọi cho anh Trần Xuân T nói anh T đến Bệnh viện Lê Văn T, thành phố Thủ Đức để vá vỏ xe (do anh T làm vá xe lưu động và có dán số điện thoại trên xe ô tô và trước đó có một người thanh niên đến hỏi mua xe ô tô của anh T nhưng anh T không bán). Sau đó, S và P chạy ra quán nước cách vị trí xe ô tô đậu khoảng 03km ngồi uống nước, khoảng 07 phút sau, P nói với S “thằng đó đi rồi” (anh T đi ra khỏi nhà), P lấy xe mô tô chở S đến vị xe ô tô đậu. P và S đi lòng vòng quanh xe giả vờ xem xe, sau đó S lên xe ô tô, cửa xe không khóa và chìa khóa đang cắm ở ổ công tắc điện, S đề máy xe nổ và chạy xe đi, còn P chạy xe mô tô đi trước dẫn đường. Khi đến bãi giữ xe ở chân cầu vượt Sóng Thần, P nói S chạy xe vào bãi. Tại đây, P mở cửa bên hông xe thì thấy 04 bánh xe ô tô đang để ở trên thùng xe, S đưa 04 bánh xe xuống đất, còn P đi thuê xe ba gác, khi xe ba gác đến P và S đưa 04 bánh xe lên xe ba gác P đưa đi bán và nói S chạy xe ô tô về bãi giữ xe ở gần Metro, phường T, Quận Z gửi lại. P đưa 04 bánh xe đi hỏi bán nhưng không được, P không nới với S mang 04 bánh xe cất giấu ở đâu. Đến khoảng 16 giờ 30 cùng ngày, S gọi điện cho P ra quán ngồi uống cà phê, tại quán nước “D” trên đường R, phường Z , Quận F, P nói S chạy xe lên huyện V, tỉnh Bình Dương để bán, nhưng S không đồng ý, nên P thuê xe cứu hộ của anh Nguyễn Văn T, đến kéo đi. S lấy xe mô tô của P chở P ngồi sau chỉ đường, trên đường đi P mượn điện thoại của S gọi điện cho anh Đặng T để bán xe ô tô. Khi đến trạm dừng chân, gần cửa hàng Bò Sữa ở Quốc lộ 1*, thuộc Ấp D, Tổ E, xã T, huyện V, tỉnh Bình Dương thì anh T đã chờ sẳn. Anh T xem xe, lên xe đề máy nổ và trả cho P 45.000.000 đồng, P đồng ý bán, anh T trả 1.600.000 đồng cho người kéo xe và cho thêm người kéo xe 200.000 đồng. Sau đó, T và P vào trong nhà P giao giấy tờ xe cho T và làm giấy mua bán xe viết tay, khi viết giấy mua bán, T hỏi P giấy chứng minh nhân dân nhưng P trả lời đã bị mất. Bán xe xong, S chở P về lại quán cà phê A, P chia cho S số tiền 22.500.000 đồng và S đã tiêu xài hết. Ngày 09/01/2022, S điện thoại hỏi P về 04 bánh xe ô tô, P cho biết đã bán được 2.000.000 đồng nhưng P đã tiêu xài hết.
Qua điều tra truy xét, ngày 11/01/2022, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã mời Võ Thanh S về làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra, S đã khai nhận hành vi như trên. Đặng T cho biết T làm nghề mua bán xe ô tô cũ, T quen biết P qua mạng zalo (không biết nhân thân lai lịch của P), P đã giới thiệu cho T mua xe ô tô một lần vào tháng 11/2021. Đến ngày 01/01/2022, P gọi điện thoại nói bán cho T 01 xe ô tô hiệu ISUZU, T trả giá 45.000.000 đồng và có hỏi nguồn gốc của xe, P trả lời xe mua đi bán lại không ủy quyền sang tên được, nên T mua để bán lại cho người khác, T không biết đó đó là tài sản do P trộm cắp mà có.
Ngày 13 tháng 01 năm 2022, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Võ Thanh S.
Kết luận định giá tài sản số 04-KV1/KLĐG-HĐĐGTS ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe ô tô biển số: 5*C-5*1.*6, SK:R55E57101845; SM:235513, loại xe tải thùng; nhãn hiệu: ISUZU, trị giá 98.333.333 đồng.
Đối với 04 vỏ xe ô tô anh Trần Xuân T cho biết đó là 04 vỏ bánh xe ô tô đã qua sử dụng của khách hàng vứt bỏ không còn giá trị, anh T lấy về bỏ lên thùng xe để về xem còn sử dụng được hay không, nếu không sử dụng được sẽ mang bỏ đi, anh T không biết số hiệu và chủng loại của 04 vỏ bánh trên xe nên không tiến hành định giá tài sản.
Tang vật do Đặng T giao nộp:
- 01 xe ô tô biển số: 5*C-5*1.*6, SK:R55E57101845; SM:235513, loại xe tải thùng; nhãn hiệu: ISUZU; màu sơn: Trắng; tải trọng: Hàng hóa 1200kg; số loại: NHR55E; dung tích: 2771.
- 01 giấy đăng ký xe ô tô số 025829 do phòng CSGT Công an TP. HCM cấp ngày 20/12/2014.
- 01 giấy chứng nhân kiểm định số 7069526 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới số 50-07V đối với xe ô tô tải hiệu ISUZU,biển số 5*C-5*1.*6.
- 01 giấy bán xe ô tô biển số 51C- 521.46 viết tay có chữ ký anh Đặng T và Nguyễn Minh P.
Vật chứng thu giữ của Võ Thanh S gồm:
- 01 điện thoại hiệu Vtel, có sim số: 0908.201.344.
- 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Thanh S.
- 01 giấy phép lái xe số AA 989843, mang tên Võ Thanh S.
- 01 giấy phép lái xe số AS061060, mang tên Võ Thanh S.
- 01 áo thun màu; 01 quần sóoc Jean, 01 đôi dép xỏ ngón, trên quai dép có chữ ASIAN màu trắng; 01 mũ lưỡi trai, tất cả đã qua sử dụng. Các đồ vật này Võ Thanh S khai đã mặc khi đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Xuân T yêu cầu được nhận lại xe ô tô đã bị mất, và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Gia đình Võ Thanh S đã khắc phục bồi thường cho Đặng T 22.500.000 đồng, anh T đã nhận tiền và không yêu cầu gì thêm, đối với số tiền còn lại của Nguyễn Văn P anh T tự xử lý không yêu cầu giải quyết .
Cáo trạng số: 156/CT-VKS ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Võ Thanh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức vẫn giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Thanh S từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2022.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với kết luận định giá, cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát và luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận.
Lời nói sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi của mình, rất hối hận về hành vi của mình. Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị hại là anh Trần Xuân T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Đặng T đã nhận tiền bồi thường, không yêu cầu gì thêm và vắng mặt tại phiên tòa. Xét việc bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử vắng mặt họ.
[2] Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.
[3] Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ... cùng các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được trong quá trình điều tra về hành vi, thời gian, không gian, địa điểm xảy ra tội phạm, phù hợp với cáo trạng của Viện kiểm sát nên có cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 00 ngày 01/01/2022, Võ Thanh S cùng với Nguyễn Văn P đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe ô tô biển số: 5*C-5*1.*6, loại xe tải thùng; nhãn hiệu: ISUZU, trị giá 98.333.333 đồng, của anh Trần Xuân T, tại trước địa chỉ: 145/2 đường Bưng Ông Thoàn, Khu phố 2, phường Phú Hữu, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh sau đó bị bắt.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội. Bị cáo có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng lười lao động lại muốn có tiền tiêu xài nên đã cố ý, lén lút chiếm đoạt 01 xe ô tô có giá trị 98.333.333 đồng. Hành vi của bị cáo thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan sai.
Đối với Nguyễn Văn P hiện đã bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát Điều tra đã tách ra có thông báo truy tìm khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với Đặng T khi mua xe ô tô không biết đó là tài sản do P phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý Đặng T về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Đối với Nguyễn Văn T là người P thuê kéo xe ô tô biển số: 5*C-5**.*6 để mang đi bán, anh Tâm không biết đó là tài sản do P trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý hình sự.
[4] Về tình tiết định khung hình phạt:
Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 98.333.333 đồng nên thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội nghiêm trọng, chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn, bị cáo không có việc làm ổn định nên cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét vai trò của bị cáo trong vụ án này là không lớn, bị cáo là người bị P rủ rê và thực hiện hành vi theo sự chỉ đạo, sắp xếp của P nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[6] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại anh Trần Xuân T không yêu cầu bồi thường thiệt hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Đặng T đã nhận tiền bồi thường, không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 xe ô tô biển số: 5*C-5*1.*6, SK:R55E57101845; SM:235513, loại xe tải thùng; nhãn hiệu: ISUZU; màu sơn: Trắng; tải trọng: Hàng hóa 1200kg; số loại: NHR55E; dung tích: 2771; 01 giấy đăng ký xe ô tô số 025829 do phòng CSGT Công an TP. HCM cấp ngày 20/12/2014;01 giấy chứng nhân kiểm định số 7069526 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới số 50-07V đối với xe ô tô tải hiệu ISUZU,biển số 5*C-5**.*6 là tài sản của anh Trần Xuân T nên trả lại cho anh Toàn.
- Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Thanh S; 01 giấy phép lái xe số AA 989843, mang tên Võ Thanh S; 01 giấy phép lái xe số AS061060, mang tên Võ Thanh S là tài sản của cá nhân bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 điện thoại hiệu Vtel, có sim số: 09**.201.**4 là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc với P để đi trộm cắp tài sản nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 áo thun màu; 01 quần sóoc Jean, 01 đôi dép xỏ ngón, trên quai dép có chữ ASIAN màu trắng; 01 mũ lưỡi trai đã qua sử dụng. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo nhưng bị cáo không yêu cầu nhận lại, không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 giấy bán xe ô tô biển số 5xC- 5**.4* viết tay có chữ ký anh Đặng T và Nguyễn Minh P là tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Võ Thanh S: 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2022.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,
- Trả lại cho bị cáo:
+ 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Thanh S.
+ 01 giấy phép lái xe số AA 989843, mang tên Võ Thanh S.
+ 01 giấy phép lái xe số AS061060, mang tên Võ Thanh S.
- Trả lại cho anh Trần Xuân T:
+ 01 xe ô tô biển số: 5*C-5*1.*6, SK: R55E57101845; SM: 235513, loại xe tải thùng; nhãn hiệu: ISUZU; màu sơn: Trắng; tải trọng: Hàng hóa 1200kg; số loại: NHR55E; dung tích: 2771 cm3.
+ 01 giấy đăng ký xe ô tô số 0****9 do phòng CSGT Công an TP. HCM cấp ngày 20/12/2014.
+ 01 giấy chứng nhân kiểm định số 7069526 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới số 50-07V đối với xe ô tô tải hiệu ISUZU,biển số 5*C-5*1.*6.
- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại hiệu Vtel, có sim số: 0908.201.344.
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 áo thun màu; 01 quần sóoc Jean, 01 đôi dép xỏ ngón, trên quai dép có chữ ASIAN màu trắng; 01 mũ lưỡi trai.
- Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án: 01 giấy bán xe ô tô biển số 51C- 521.46 viết tay có chữ ký anh Đặng T và Nguyễn Minh P.
(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 73/QĐ-VKS ngày 23/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức và Lệnh nhập kho vật chứng số 58TG/2022 ngày 04/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức).
4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, - Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
- Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
- Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 261/2022/HS-ST
Số hiệu: | 261/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về