Bản án về tội trộm cắp tài sản số 253/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 253/2022/HS-PT NGÀY 07/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tình Gia Lai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 230/2022/TLPT-HS ngày 6 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn P và đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1842/2022/QĐXXPT-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Văn P, tên gọi khác: B, sinh ngày 06/4/1981 tại Gia Lai; Nơi thường trú: Tổ 3, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Học vấn: 9/12; Con ông Nguyễn Văn T (đã chết), con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1952; Bị cáo có vợ chị Nguyễn Thị Tuyết T (đã ly hôn), sống như vợ chồng với chị Lê Thị Thảo K, có 04 con lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 22/7/2008, thực hiện hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại huyện Đ, tỉnh Gia Lai và bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2009/HSST ngày 10/3/2009 (đã xóa án tích).

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

2. Hoàng Duy L, tên gọi khác: T, sinh ngày 30/01/1993 tại Gia Lai; Nơi thường trú: thành phố P, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Học vấn: 8/12; Con ông Hoàng Đình P (đã chết), con bà Ngô Thị Diễm T sinh năm 1971; Bị cáo có vợ là chị Mai Hoàng Yến N, sinh năm 1996, có 02 con sinh năm 2016 và sinh năm 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2012, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thành phố p, tỉnh Gia Lai và bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 15 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2013/HSST ngày 20/3/2013. Ngày 26/9/2013 chấp hành xong hình phạt tù trở về sinh sống tại địa phương (đã xóa án tích).

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/3/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

3. Hoàng Đình D, sinh ngày 12/3/1981 tại Gia Lai; Nơi thường trú: thành phố p, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Học vấn: 6/12; Con ông Hoàng T (đã chết), con bà Bùi Thị T; Bị cáo có vợ là chị Nguyễn Thị Tuyết T sinh năm 1983, có 02 con sinh năm 2005 và sinh năm 2009; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 16 và 17/7/2001, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thành phố P, tỉnh Gia Lai và bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 21/HSPT ngày 11/3/2002. Ngày 04/4/2003 chấp hành xong hình phạt tù trở về sinh sống tại địa phương (đã xóa án tích).

Từ tháng 4 đến tháng 6/2012, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thành phố P, tỉnh Gia Lai và bị Tòa án nhân dân thành phố p xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2013/HSST ngày 20/3/2013. Ngày 20/3/2015 chấp hành xong thời gian thử thách (đã xóa án tích).

Ngày 09/01/1998 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp và cưỡng đoạt tài sản công dân theo Quyết định số 62/QĐ- UB ngày 09/01/1998.

Ngày 26/9/2019 bị Công an phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi cố ý gây thương tích theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0000613 ngày 26/9/2016. Ngày 17/10/2019 đã chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn P: Ông Phạm Ngọc Q là Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Đình D và Hoàng Duy L: Ông Ngô Đức N là Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai; có mặt.

* Người bị hại:

- Ông Lê Văn T, sinh năm 1968, vắng mặt.

Trú tại: thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Đình K; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Trần Đình K, sinh năm 1988, vắng mặt;

Trú tại: tỉnh Gia Lai.

- Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1977, vắng mặt;

Trú tại: thành phố P, tỉnh Gia Lai. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đào Xuân T; trú tại: thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị Tuyết T, sinh năm 1983, vắng mặt.

Trú tại: phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

- Chị Hoàng Uyển M, sinh năm 2000, vắng mặt;

Trú tại: phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn P là lái xe của hãng xe khách G chạy tuyến thành phố P, tỉnh Gia Lai đi thành phố Hồ Chí Minh. Q trình chạy xe cho nhà xe G, p biết được ông Lê Văn T - cũng là lái xe ô tô khách của hãng xe G thường xuyên nhận vận chuyển vàng cho khách từ thành phố P, tỉnh Gia Lai đi thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 03/3/2021, trong lúc P ngồi nhậu cùng với Hoàng Đình D và Hoàng Duy L (cháu một của D) tại nhà của D ở tổ 12, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai thì P có nói cho D, L biết việc này. P rủ D và L cùng nhau thực hiện việc trộm cắp số vàng mà ông T nhận vận chuyển cho khách hàng từ Gia Lai đi thành phố Hồ Chí Minh, D và L đồng ý. p nói cho D và L biết ông T thường cất số vàng vận chuyển cho khách trong túi xách cá nhân và để ở hàng ghế cuối của xe ô tô biển kiểm soát 81B-017.26 do ông T điều khiển. Đồng thời cả ba cùng nhau bàn bạc và thống nhất P sẽ thông báo thời gian xe ô tô do ông T điều khiển xuất bến từ Gia Lai đi thành phố Hồ Chí Minh để D và L biết để đón và lên xe ô tô do ông T điều khiển nhằm lấy trộm tài sản.

Ngày 05/3/2021, anh Trần Đình K là chủ tiệm vàng L địa chỉ tại tỉnh Gia Lai đóng 02 gói hàng bên trong có 80 miếng vàng SJC (80 lượng - loại vàng 99,99%) và 6,898 lượng vàng nữ trang (loại vàng 98,00%) đựng trong một túi xách ni lông để chuẩn bị gửi vào thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, anh K nhờ mẹ mình là bà Phan Thị T Vân gửi túi ni lông có chứa số vàng nêu trên cho ông Lê Đức D - là lái xe của hãng xe khách T để vận chuyển từ thị xã A đến thành phố P, tỉnh Gia Lai giao cho chị Nguyễn Thị Thu H - là chủ tiệm vàng K, địa chỉ số thành phố P, tỉnh Gia Lai. Khoảng 16h45’ cùng ngày, sau khi nhận túi ni lông có 02 gói hàng trên, chị H tiếp tục bỏ vào một phong bì có chứa số tiền 2.000 đô la Mỹ (USD) rồi gọi điện thoại cho ông Lê Văn T đến cổng chợ tại đường Nguyễn Thiện T, thành phố p nhận để vận chuyển từ thành phố P, tỉnh Gia Lai đi thành phố Hồ Chí Minh với tiền cước vận chuyển là 200.000 đồng. Lúc này, do bận công việc không đi được nên ông Lê Văn T đã nhờ vợ là bà Trần Thị Q đến gặp chị H để nhận túi ni lông có chứa vàng và tiền trên giúp rồi mang đến nhà xe G đưa cho ông T. Sau đó, ông T bỏ túi ni lông có chứa các tài sản nêu trên vào trong túi xách đựng đồ cá nhân của mình rồi để ở hàng ghế cuối của xe ô tô 81B-017.26 do ông T điều khiển và lấy một cái chăn phủ lên phía trên túi xách.

Khoảng 17h00’ ngày 05/3/2021, Hoàng Đình D gọi điện thoại cho P để hỏi thời gian xe ô tô do ông T điều khiển xuất bến thì được p thông báo xe ô tô do ông T điều khiển xuất bến vào lúc 18h30’ cùng ngày. D gọi điện thoại thông báo cho L biết để chuẩn bị. Đến khoảng 18h30’ cùng ngày, Hoàng Đình D đứng đợi ở ngã ba giao nhau giữa đường N và đường T thì thấy xe ô tô 81B-017.26 do ông T điều khiển đi đến nên đã đón và lên xe rồi điện thoại thông báo cho L biết. Khi xe ô tô 81B-017.26 đi đến khu vực ngã tư L nghiệp thì L đã đứng đợi rồi đón và lên xe. Sau khi lên xe, D và L đã quan sát và thấy được vị trí để túi xách của ông T. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi xe ô tô 81B-017.26 do ông T điều khiển dừng nghỉ tại tỉnh Đắk Lắk để khách ăn uống ban đêm. Lúc này, ông T cùng với các nhân viên và hành khách xuống xe thì D xuống theo với mục đích để cảnh giới. Còn L thì ở lại trên xe và đi đến vị trí nơi ông T để túi xách cá nhân để lục tìm tài sản. L thấy túi ni lông bên trong có chứa gói hàng đựng vàng và tiền USD nêu trên nên lấy bỏ vào trong túi xách mà L đã mang theo trước đó rồi bấm mở cửa xe đi xuống. L cất giấu túi xách có chứa tài sản vừa lấy trộm được ở bụi cỏ bên hông Trạm dừng nghỉ nêu trên. Khoảng 10 phút sau, khi xe ô tô 81B-017.26 do ông T điều khiển tiếp tục khởi hành đi thành phố Hồ Chí Minh thì D và L quay lại trên xe. Khi xe chạy được khoảng 05 phút thì L nhắn tin thông báo cho D biết là L đã lấy trộm được vàng trên xe. L bảo D xuống xe trước rồi L xuống sau. D đồng ý và xuống xe tại huyện Đ, tỉnh Đắk Nông còn L xuống xe tại huyện S, tỉnh Đắk Nông. Khi xuống xe, L đón taxi quay lại huyện Đ đón D rồi cả hai đi đến trạm dừng nghỉ Rạng Đông để L lấy tài sản trộm cắp đã cất giấu trước đó. Sau đó, L và D đón taxi mang số tài sản trộm được về thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuê nhà nghỉ. Tại đây, D và L kiểm tra tài sản lấy trộm được thì thấy có nhiều vàng miếng SJC (loại 01 lượng/miếng), nhiều vàng nữ trang và số tiền 2.000 USD nên điện thoại thông báo cho P biết. Sau đó, D lấy số tiền 2.000 USD cất vào túi của mình và cùng L gói số vàng trên lại rồi đi ngủ. Sáng ngày 06/3/2021, D đã sử dụng 300 USD để đổi ra tiền Việt Nam đồng tại một tiệm vàng ở thành phố B để sử dụng làm chi phí cùng L đón xe về lại tỉnh Gia Lai. Khi đến nơi, D và L mang số vàng trên cất giấu ở khu chăn nuôi gà sau nhà D thuộc tổ 12, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. số tiền 1.700 USD còn lại D lấy 600 USD, chia cho L 600 USD và chia cho P 500 USD. Ngày 12/3/2021, D mang số vàng trên sang nhà L ở tổ 12, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai để kiểm đếm. D và L đếm được có 80 lượng vàng SJC và 6,898 lượng vàng (dạng vàng nữ trang gồm dây chuyền, vòng tay, vòng cổ,...). Lúc này, L gọi cho p bằng cuộc gọi “zalo video” để cho P thấy hình ảnh số vàng trộm được. Do thấy số vàng trộm cắp được nhiều nên P sợ và gọi điện thoại cho D nói gói số vàng lại để đem trả nhưng L không đồng ý. D nói với P là sẽ chia cho P 05 lượng vàng SJC và 02 sợi dây chuyền vàng nhưng P nói không nhận rồi tắt máy. Sau đó, L chia cho D 10 lượng vàng SJC, 04 vòng vàng và 02 sợi dây chuyền vàng. D mang số vàng trên về nhà cất giấu tại trang trại nuôi gà sau nhà mình. L giữ số vàng còn lại và rồi bỏ trốn. Ngày 16/3/2021, Nguyễn Văn P đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giao nộp số tiền 500 USD. Ngày 17/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Hoàng Đình D, ra lệnh khám xét chỗ ở của Hoàng Đình D và thu giữ 10 lượng vàng SJC, 04 vòng màu vàng và 02 sợi dây kim loại màu vàng mà D đã cất giấu tại khu nuôi gà của nhà mình. Ngày 24/3/2021, Hoàng Duy L đến Công an xã la Krái, huyện la Grai, tỉnh Gia Lai đầu thú và khai nhận vị trí nơi L cất giấu 48 lượng vàng SJC ở phần mộ của ông Hoàng Đình Phụng (cha bị can L) tại nghĩa trang thành phố P thuộc thôn 4, xã Trà Đa, thành phố P, tỉnh Gia Lai và cất giấu 10 lượng vàng SJC tại nhà của mẹ bị can là bà Ngô Thị Diễm Thúy ở 225 Cách mạng tháng Tám, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai để Cơ quan điều tra tiến hành truy tìm và thu giữ.

Ngày 14/9/2021, Cơ quan điều tra đã ra các Quyết định trưng cầu giám định số 145/CSHS và 146/CSHS để trưng cầu Phân viện Khoa học Hình sự tại thành phố Đà Nang giám định số vật chứng đã thu giữ được. Tại Kết luận giám định số 1103/C09C-D2 ngày 27/9/2021 và Kết luận giám định số 1073/C09C- Đ2 ngày 27/9/2021 của Phân viện Khoa học Hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: 02 sợi dây chuyển kim loại màu vàng dài 50 cm và 55 cm gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng kim loại vàng trung bình là 98,00%, khối lượng mẫu là 7,35gam và 11,22gam; phần kim loại màu vàng bọc ngoài 04 chiếc vòng gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng kim loại vàng là 98,00%, tổng khối lượng (kể cả chất màu nâu bên trong) của 04 vòng lần lượt là 15,56gam, 15,44gam, 9,15gam và 8,23gam; 68 miếng kim loại màu vàng gửi giám định đều là kim loại vàng (Au), hàm lượng kim loại vàng đều là 99,99%, có tổng khối lượng là 2.549,58gam; số tiền 500 đô la Mỹ gửi giám định là tiền đô la Mỹ thật.

Tại Kết luận định giá tài sản số 636/KL-HĐĐGTS ngày 30/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự tỉnh Gia Lai kết luận tại thời điểm bị chiếm đoạt 80 lượng vàng miếng SJC trị giá 4.462.933.333 đồng, 6,898 lượng vàng nữ trang (loại vàng 98,00%) trị giá 362.374.933 đồng; 2.000 USD trị giá 46.220.000 đồng. Tổng cộng: 4.871.528.266 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HSST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Duy L và Hoàng Đình D phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Hoàng Duy L 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2021

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2021 Xử phạt bị cáo Hoàng Đình D 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/3/2021 Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 6/5/2022, bị cáo Hoàng Duy L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 9/5/2022, các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Đình D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 23/5/2022 các bị cáo P và D có đơn xin rút kháng cáo.

Người bị hại ông Lê Văn T kháng cáo về trách nhiệm bồi thường dân sự đề nghị buộc 3 bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Duy L, Hoàng Đình D phải liên đới trách nhiệm bồi thường dân sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu H kháng cáo về trách nhiệm bồi thường dân sự đề nghị buộc 3 bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Duy L và Hoàng Đình D phải liên đới trách nhiệm phần bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Đình D xin rút kháng cáo; bị cáo Hoàng Duy L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Các bị cáo P, D rút kháng cáo đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với hai bị cáo. Tòa án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo L 14 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản là đứng pháp luật; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhung không có tình tiết mới; đối với kháng cáo của người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tòa án sơ thẩm đã giải quyết là có căn cứ đúng pháp luật, người bị hại và liên quan kháng cáo không có căn cứ; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 355 BLTTHS bác kháng cáo của bị cáo L, người bị hại ông Lê Văn T, người liên quan bà Nguyễn Thị Thu H giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo P và D trình bày: Các bị cáo P và D đã rút kháng cáo; đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với hai bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Duy L: Thống nhất về tội danh đối với bị cáo, về mức án đề nghị xem xét giảm án cho bị cáo.

Bị cáo Hoàng Duy L thống nhất với lời bào chữa của người bào chữa, đề nghị xin giảm án tù.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại trình bày: Đề nghị tuyên buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường số vàng và tiền cho người bị hại.

Các bị cáo P và D không đồng ý bồi thường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa Các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Đình D xin rút kháng cáo; do đó căn cứ vào quy định tại Điều 348 BLTTHS đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn P và Hoàng Đình D, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Đình D.

[2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt tù của bị cáo Hoàng Duy L, thấy:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở nhận định: Bị cáo Nguyễn Văn p biết ông Lê Văn T thường nhận vận chuyển vàng từ Gia Lai vào thành phố Hồ Chí Minh giao cho khách. Nên p đã nói cho Hoàng Đình D và Hoàng Duy L biết mục đích để D, L trực tiếp trộm cắp vàng do ông T nhận vận chuyển thì cả hai đồng ý. Ngày 05/3/2021 P đã thông báo cho L và D biết nơi ông T thường để tài sản trên xe, giờ khởi hành và biển số xe mà ông T điều khiển để hai bị cáo này đón, thừa cơ hội trên đường đi vào thành phố Hồ Chí Minh sẽ trộm số vàng do ông T vận chuyển. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi xe dừng nghỉ ở thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì D xuống xe cùng tất cả mọi người và cảnh giới cho L trộm cắp số vàng ông T để ở hàng ghế cuối của xe và cất giấu tại bụi cỏ bên hông Trạm dừng nghỉ, để tránh sự nghi ngờ các bị cáo cùng khởi hành đến địa phận tỉnh Đăk Nông thì lần lượt xuống xe, quay trở lại vị trí cất giấu tài sản trộm cắp để lấy mang đi đổi USD lấy tiền tiêu xài, số vàng trộm cắp được các bị cáo chia nhau cất giấu. Đến ngày 12/3/2021 các bị cáo D, L mới thông báo cho P biết số tài sản trộm cắp được là 80 lượng vàng SJC và 6,898 lượng vàng (dạng vàng nữ trang gồm dây chuyền, vòng tay, vòng cổ,...) cùng 2.000 USD. trị giá 4.462.933.333 đồng, 6,898 lượng vàng nữ trang (loại vàng 98,00%) trị giá 362.374.933 đồng; 2.000 USD trị giá 46.220.000 đồng. Tổng cộng: 4.871.528.266 đồng. Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Duy L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2.2] Trong vụ án này bị cáo Hoàng Duy L giữ vai trò thực hành tích cực nhất, trực tiếp lấy vàng cất giấu và trực tiếp chia vàng cho bị cáo D và P. Bị cáo L ngoài việc chỉ số vàng cất giấu thì chưa bồi thường toàn bộ số vàng, số tiền đã chiếm đoạt của bị hại, ngoài ra bị cáo đã từng bị xét xử về tội trộm cắp tài sản nay lại phạm cùng tội nên phải chịu mức án trong khung hình phạt. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Duy L 14 năm tù về tội ‘Trộm cắp tài sản” là có căn cứ và đúng pháp luật và không nặng. Tại cấp phúc thẩm bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không có tình tiết nào mới; do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo L về việc xin giảm nhẹ hình phạt tù, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Xét kháng cáo của người bị hại ông Lê Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà nguyễn Thị Thu H, thấy:

Sau khi trộm cắp tài sản thì các bị cáo đã phân chia tài sản trộm cắp cho nhau; bị cáo L là người phân chia vàng cho bị cáo D và giữ toàn bộ số vàng còn lại; quá trình điều tra bị cáo P và D đã nộp lại toàn bộ số vàng, số tiền được chia nên nghĩa vụ bồi thường của bị cáo P và bị cáo D đã thực hiện xong. Bị cáo L giữ toàn bộ số vàng còn lại rồi tự chia ra cất giấu và bỏ trốn, khi ra đầu thú bị cáo đã chỉ một phần tài sản trộm cắp là vàng cho Cơ quan điều tra thu giữ, phần còn lại được xác định là 12 lượng vàng SJC; 5,798 lượng vàng nữ trang (loại vàng 98,00%) và 650 USD bị cáo khai đã bị mất lúc chạy trốn, đến nay vẫn chưa thu hồi được nên bị cáo L phải bồi thường cho bị hại là ông Lê Văn T toàn bộ tài sản này theo quy định tại Điều 48 BLHS năm 2015 như quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ. Do đó không chấp nhận kháng cáo của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, về án phí hình sụ và dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn P và Hoàng Đình D không phải chịu án phí phúc thẩm; bị cáo kháng cáo Hoàng Duy L, người bị hại ông Lê Văn T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu H kháng cáo nhưng không được chấp nhận; do đó phải chịu án phí hình sự và dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Đình D; Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HSST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai có hiệu lực pháp luật đối với các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Đình D.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Duy L, người bị hại ông Lê Văn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu H; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HSST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai;

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Hoàng Duy L 14 (mười bốn) năm tù tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2021 3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015, xử:

Buộc bị cáo Hoàng Duy L bồi thường cho ông Lê Văn T 974.028.267đ (Tương đương 12 lượng vàng SJC; 5,798 lượng vàng nữ trang loại vàng 98,00%) và 650 USD.

Ông Lê Văn T có nghĩa vụ bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thu H 974.028.267đ (Tương đương 12 lượng vàng SJC; 5,798 lượng vàng nữ trang loại vàng 98,00%) và 650 USD.

Chị Nguyễn Thị Thu H có nghĩa vụ bồi thường cho anh Trần Đình K 974.028.267đ (Tương đương 12 lượng vàng SJC; 5,798 lượng vàng nữ trang loại vàng 98,00%).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.

4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HSST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về xử lý vật chứng, về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn P, Hoàng Đình D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Hoàng Duy L, phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Người bị hại ông Lê Văn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm số tiền 300.000 đồng(Ba trăm ngàn đồng).

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 253/2022/HS-PT

Số hiệu:253/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về