Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC MÊ, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2023/TLST-HS ngày 12/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST-HS ngày 01/11/2023 đối với:

- Bị cáo: Phan Mạnh V; sinh năm 1994; nơi sinh: Huyện B, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện B, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Tao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Quốc P, sinh năm 1958 và con bà Chu Thị T, sinh năm 1966; có 02 anh em ruột, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; vợ con: Không; tiền sự: Không; tiền án: Năm 2021 Tòa án nhân dân huyện Bắc Mê, xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích); nhân thân: Không; tạm giữ: Ngày 09/8/2023; tạm giam: Ngày 18/8/2023. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện B đến (có mặt).

Người bào cha cho bị cáo: Ông Nguyễn Xuân G - Trợ giúp viên pháp lý; nơi công tác: Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H (Có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn H; sinh năm 1990; nơi đăng ký HKTT: Thôn B, xã Y, huyện B, tỉnh Hà Giang; chỗ ở hiện nay: Tổ A thị trấn Y, huyện B, tỉnh Hà Giang (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Ông: Nguyễn Văn T1; sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn P, thị trấn Y, huyện B, tỉnh Hà Giang (Có mặt).

Bà: Trần Thị H1; sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn P, thị trấn Y, huyện B, tỉnh Hà Giang (Có mặt).

Ông: Phan Quốc P; sinh năm 1958; nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện B, tỉnh Hà Giang (Có mặt).

- Người làm chứng: Ông Trần Văn Đ; sinh năm 1975 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 8/2023 Phan Mạnh V một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại WAVE Alpha màu sơn đỏ - đen, BKS 23K1-045.xx (mượn của bố đẻ ông Phan Quốc P) đi từ nhà lên thị trấn Y, huyện B, tỉnh Hà Giang chơi thì phát hiện tại hiên nhà ông Trần Văn S ở tổ E, thị trấn Y, huyện B (nhà bỏ hoang không có người ở nhà) để nhiều phế liệu dạng thanh nhôm và khung cửa sổ đơn bằng sắt (tài sản của ông Nguyễn Văn H gửi nhờ) đã được phân loại, xếp chồng lên nhau nên V nảy sinh ý định lấy trộm số phế liệu đem bán cho cơ sở thu mua phế liệu lấy tiền mua ma túy sử dụng. Do số lượng phế liệu nhiều, không thể lấy hết trong một lần, nên V mỗi ngày lấy một lần để tránh bị phát hiện. V đà thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản (phế liệu) của Nguyễn Văn H cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 11h00 ngày 02/8/2023, V một mình điều khiển xe máy từ nhà đến khu vực tổ E, thị trấn Y, huyện B thì dừng xe lại, quan sát không có người trông coi, đi vào hiên nhà ông S bê 02 (chồng) khung sắt dạng hình chữ nhật, mỗi chồng khoảng 10 khung xếp lên yên xe mô tô chở đến cơ sở thu mua phế liệu của ông Nguyễn Văn T1 thì gặp bà Trần Thị H1 (vợ ông T1) ở nhà. Thấy V mang phế liệu đến bán bà H1 hỏi về nguồn gốc số phế liệu do đâu mà có V nói dối đi phá nhà cũ thuê được chủ cho nên bà H1 đồng ý mua giá 7.000đ/kg. Hai người cân số sắt được 60kg, bà H1 trả cho số tiền 420.000đ (Bốn trăm hai mươi nghìn đồng). Bán xong V điều khiển xe mô tô đi sang xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng mua 01 gói ma túy (H) giá 100.000đ của một người đàn ông không rò tên tuổi, địa chỉ để sử dụng, số tiền còn lại một mình tiêu xài hết.

Lần 2: Khoảng 11h00 ngày 04/8/2023, V tiếp tục sử dụng chiếc xe mô tô trên và cùng với phương thức, dùng thủ đoạn tương tự trên trộm cắp 02 (bó) khung cửa sắt hình chữ nhật, khoảng 20 cái chở đến nhà vợ chồng T1 -H1, đến nơi V và bà H1 cân số sắt được 60kg x 7.000đ/kg = 420.000T (Bốn trăm hai mươi nghìn đồng). Cùng ngày V điều khiển xe mô tô đi sang xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng mua 01 gói ma túy (H) giá 100.000đ của một người đàn ông không rồ tên tuổi, địa chỉ để sử dụng, số tiền còn lại tiêu xài cá nhân hết.

Lần 3: Khoảng 11h00 ngày 05/8/2023, V tiếp tục sử dụng chiếc xe mô tô trên và cùng với phương thức, dùng thủ đoạn tương tự trộm cắp 02 (bó) khung cửa sắt hình chừ nhật, khoảng trên 20 cái chở đến nhà vợ chồng T1-H1. Bà H1 không có ở nhà nên ông T1 có hỏi về nguồn gốc số phế liệu trên thì V nói dối đi phá nhà cũ thuê được chủ cho nên ông T1 đồng ý mua, sau đó hai người cân số sắt được 60kg x 7.000đ/kg = 420.000đ (Bốn trăm hai mươi nghìn đồng). Nhận tiền xong V điều khiển xe mô tô đi sang xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng mua 01 gói ma túy (H) giá 100.000đ của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ để sử dụng, số tiền còn lại tiêu xài cá nhân hết.

Lần 4: Khoảng 11h00 ngày 06/8/2023, cùng với phương tiện, phương thức, dùng thủ đoạn tương tự V trộm cắp được 02 (bó) khung cửa sắt hình chữ nhật, khoảng trên 20 cái chở đến nhà vợ chồng T1-H1, sau đó V cùng bà H1 cân số sắt được 60kg x 7.000đ/kg = 420.000đ (Bốn trăm hai mươi nghìn đồng). Cùng ngày, V đi sang xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng mua 01 gói ma túy (H) giá 100.000đ của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ để sử dụng, số tiền còn lại tiêu xài cá nhân hết.

Lần 5: Khoảng 11h00 ngày 08/8/2023, cùng với phương tiện, phương thức, dùng thủ đoạn tương tự V trộm cắp lấy 01 (bó) khung cửa sắt hình chữ nhật, khoảng trên 10 cái. Sau đó V tiếp tục dùng dây thép ly thu gom những thanh nhôm còn lại buộc thành 02 (bó) chở đến nhà vợ chồng T1-H1. V cùng bà H1 cân số sắt được 30kg sắt x 7.000đ = 210.000đ, số nhôm được 19kg x 20.000đ/kg = 380.000đ. Tổng cả sắt và nhôm bán được 590.000đ (Năm trăm chín mươi nghìn đồng). Do không có tiền lẻ, bà H1 trả cho 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng). Cùng ngày, V điều khiển xe mô tô đi sang xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng mua 01 gói ma túy (H) giá 100.000đ của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ để sử dụng, số tiền còn lại tiêu xài cá nhân hết.

Lần 6: Khoảng 11h00 ngày 09/8/2023, vẫn với phương tiện, phương thức thủ đoạn như các lần trước V lấy trộm được 02 bó thanh nhôm (không rõ số lượng) chở đến cơ sở thu mua phế liệu của Trần Văn Đ ở thôn P, thị trấn Y, huyện B nhưng chưa bán thì bị lực lượng Công an thị trấn Y phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật 01 bó thanh nhôm dạng hộp, trọng lượng 21,5kg; 01 bó thanh nhôm dạng hộp, trọng lượng 12kg.

Kết luận định giá tài sản ngày 14/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận: 01 bó thanh nhôm dạng hộp, trọng lượng 21,5kg gồm 27 thanh nhôm dạng hộp rỗng, cũ giá trị 752.500đ. 01 bó thanh nhôm dạng hộp, trọng lượng 12kg gồm 52 thanh nhôm dạng hộp rỗng, cũ giá trị 420.000đ. Tổng giá trị tài sản là 1.172.500 đồng.

Kết luận định giá tài sản ngày 17/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận: 02 bó nhôm dạng hộp (đã qua sử dụng) trọng lượng 19kg, giá trị 665.000đ. 40 khung sắt (Đã qua sử dụng) mỗi khung kích thước dài 1,10m, rộng 0,40m trọng lượng 72kg giá trị là 576.000đ. 62 khung sắt (đã qua sử dụng) kích thước dài 1,27m, rộng 0,45m trọng lượng 198,4kg giá trị là 1.587.200đ. Tổng giá trị tài sản là 2.828.200 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản của 06 lần Phan Mạnh V chiếm đoạt của bị hại Nguyễn Văn H giá trị là 4.000.700đ (Bốn triệu, không nghìn, bảy trăm đng).

Ngày 15/8/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện B phối hợp với các ngành chức năng tiến hành đưa Phan Mạnh V, bị hại, tiến hành xác định các vị trí thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, đều phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được.

Sau khi biết số phế liệu mua của Phan Mạnh V là tài sản do trộm cắp mà có, ngày 15/8/2023, ông Nguyễn Văn T1 giao nộp lại toàn bộ số phế liệu cho cơ quan điều tra gồm: 02 bó nhôm dạng hộp trọng lượng 19kg. 40 khung sắt mỗi khung kích thước dài 1,10m, rộng 0,40m trọng lượng 72 kg. 62 khung sắt mỗi khung kích thước dài 1,27m, rộng 0,45m có tổng trọng lượng 198,4kg. Bị cáo V, bị hại H xác nhận số phế liệu cơ quan điều tra thu giữ là tài sản của anh H.

Vật vụ án thu giữ: 01 bó thanh nhôm dạng hộp trọng lượng 21,5kg gồm 27 thanh nhôm dạng hộp rỗng, cũ. 01 bó thanh nhôm dạng hộp trọng lượng 12kg gồm 52 thanh nhôm dạng hộp rỗng, cũ. 02 bó nhôm dạng hộp (đã qua sử dụng) trọng lượng 19 kg. 40 khung sắt (đã qua sử dụng) mỗi khung kích thước dài 1,10m, rộng 0,40m trọng lượng 72 kg. 62 khung sắt (đã qua sử dụng) mỗi khung kích thước dài 1,27m, rộng 0,45m trọng lượng 198,4kg. 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại WAVE ALPHA, màu sơn đỏ - đen, BKS: 23K1-045.xx xe cũ, đã qua sử dụng.

Sau khi xác định số phế liệu thu giữ trên là tài sản của ông Nguyễn Văn H, xét thấy không ảnh hưởng đến việc điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu. Đối với 01 chiếc xe mô tô BKS: 23K 1-045.xx qua xác minh xác định là tài sản của ông Phan Quốc P, ông P không biết việc V dùng xe vào việc phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Nguyễn Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Phan Quốc P đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Văn T1 và bà Trần Thị H1 yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 2.272.000đ đã mua sắt, nhôm của bị cáo V.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKSBM ngày 11/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, truy tố bị cáo Phan Mạnh V về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Đại diện viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử.

Tuyên bố bị cáo: Phan Mạnh V phạm tội Trộm cắp tài sản.

Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điều 38; điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 5H điểm h, khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Phan Mạnh V từ 12 đến 14 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/8/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không; về vật chứng: Không.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Phan Mạnh V trả lại cho gia đình ông Nguyễn Văn T1 và bà Trần Thị H1 số tiền 2.272.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền đã nộp 2.272.000 đồng theo biên lai thu số 0002501 ngày 14/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ, khoản 1, Điều 12, Điều 14, khoản 6, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo được miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch.

Trợ giúp viên pháp lý bào cha cho bị cáo Phan Mạnh V: Đồng tình quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh bị cáo Phan Mạnh V phạm tội Trộm cắp tài sản là đúng người đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét các tình tiết giảm nhẹ. Bị cáo thành khẩn khai báo, tác động gia đình bồi thường số tiền 2.272.000đ, nhận thức pháp luật hạn chế là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử: về tội danh tuyên bố bị cáo Phan Mạnh V phạm tội Trộm cắp tài sản. Hình phạt: Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phan Mạnh V 12 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Không. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã nộp số tiền 2.272.000 đồng để trả cho ông Nguyễn Văn T1 và bà Trần Thị H1. Về án phí: áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đề nghị miễn nộp toàn bộ tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo Phan Mạnh V nhất trí với quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý không có bổ sung.

Bị cáo Phan Mạnh V nhất trí với quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, hình phạt và thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhất trí quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị, không có tranh luận gì.

Bị cáo thực hiện quyền nói lòi sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đà được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa vắng mặt: Bị hại Nguyễn Văn H; người làm chứng ông Trần Văn Đ. Xét thấy bị cáo; trợ giúp viên pháp lý; Kiểm sát viên; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đồng ý xét xử vắng mặt; trong hồ sơ đã có lời khai, việc vắng mặt những người trên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Hội đồng tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Mê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đă thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại; phù hợp với biên bản hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận: Khoảng từ ngày 02/8/2023 đến ngày 09/8/2023, Phan Mạnh V lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chủ sở hữu ông Nguyễn Văn H, bị cáo V đã thực hiện 06 (Sán) lần trộm cắp phế liệu gồm: 52,5kg thanh nhôm dạng hộp và 270,4kg sắt dạng khung cửa sổ đơn tổng trị giá 4.000.700đ. Mục đích để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân. Giá trị tài sản của mỗi lần trộm cắp đều dưới mức tối thiểu truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng xét thấy bị cáo có ý thức chiếm đoạt hết toàn bộ số phế liệu của bị hại, tuy nhiên do sợ bị phát hiện nên bị cáo đã chia thành nhiều lần trộm cắp. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự của 06 lần trộm cắp liên tục tổng giá trị 4.000.700đ (Bốn triệu, không nghìn, bảy trăm đồng). Như vậy, cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo lợi dụng sơ hở không cảnh giác của bị hại đã lén lút thực hiện hành vi Trộm cắp phế liệu giá trị 4.000.700đ của bị hại Nguyễn Văn H, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích cá nhân đã trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy và tiêu xài cá nhân. Do đó cần có mức án nghiêm minh đối với bị cáo, tương xứng với hành vi phạm tội gây ra, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo có 01 tiền án năm 2021 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Mê, xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, lần phạm tội này chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu sau khi chấp hành án xong về địa phương không tu trí làm ăn, mà còn tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo là người khó cải tạo giáo dục để trở thành công dân tốt cho xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, tác động gia đình bồi thường số tiền 2.272.000đ; sống ở vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là người dân tộc thiểu số. Nên xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

[6] Bị cáo Phan Mạnh V đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện B Hội đồng xét xử xét thay cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án quy định tại Điều 329 của Bộ Luật Tố tụng hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định thuộc hộ cận nghèo, sống ở vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, không có khả năng thi hành. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Đối với số tiền thu lời bất chính: Bị cáo đã bán phế liệu được tổng số tiền 2.280.000 đồng do phạm tội mà có xong tiêu xài cá nhân hết, theo quy định của pháp luật phải truy thu nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên bị cáo không có tài sản, không có thu nhập và thuộc hộ cận nghèo nên Hội đồng xét xử không truy thu số tiền trên.

[9] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã xác định đúng chủ sở hữu hợp pháp đã trả lại tài sản cho bị hại ông Nguyễn Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Quốc P là đúng theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Nguyễn Văn H sau khi nhận đủ tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Văn T1 và bà Trần Thị H1 là vợ chồng tại phiên tòa thống nhất thực tế số tiền bỏ ra mua phế liệu 2.280.000đ. Tuy nhiên tại phiên tòa yêu cầu bị cáo V trả lại số tiền 2.272.000đ và để cho chồng là ông Nguyễn Văn T1 trực tiếp nhận tiền bồi thường trên là phù hợp nên được chấp nhận.

Đối với ông Phan Quốc P là bố đẻ bị cáo đã tự nguyện bồi thường thay cho bị cáo số tiền 2.272.000đ, tại phiên tòa không yêu cầu bị cáo V hoàn trả số đã bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Trong vụ án này có một số đối tượng liên quan:

- Đối với Phan Mạnh V, ngoài hành vi Trộm cắp tài sản có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện B đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phan Mạnh V, hiện nay không xác định được nhân thân lai lịch, do đó không có cơ sở để xử lý.

- Đối với ông Nguyễn Văn T1 và bà Trần Thị H1 mua phế liệu của bị cáo V nhưng do V nói dối về nguồn gốc tài sản nên không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có, do vậy không có căn cứ để xử lý.

- Đối với ông Phan Quốc P là người cho Vũ mượn xe máy, sau đó V đã sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, ông Phan Quốc P không biết V sử dụng chiếc xe của mình vào việc phạm tội. Do đó không có cơ sở để xử lý.

[12] Từ những căn cứ trên, xét thấy đại diện Viện Kiểm sát đề nghị là có căn cứ chấp nhận.

[13] Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo đề nghị mức hình phạt là có cơ sở được chấp nhận.

[14] Về án phí: Bị cáo sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người dân tộc thiểu số và có đơn đề nghị miễn nộp án phí. Hội đồng xét xử xét cho bị cáo được miễn toàn bộ tiền án phí.

[15] Quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Mạnh V phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điều 38; điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Phan Mạnh V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt ngày 09/8/2023.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 586 và Điều 589 của Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Phan Mạnh V trả lại cho ông Nguyễn Văn T1 số tiền 2.272.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền đã nộp 2.272.000 đồng (Hai triệu hai trăm bảy mươi hai nghìn đồng) theo biên lai thu số 0002501 ngày 14/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang (đã thi hành xong).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Không.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ, khoản 1, Điều 12, Điều 14, khoản 6, Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Phan Mạnh V được miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Mê - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về