Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/10/1960, tại xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: khối phố X, phường T, thành phố K, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lái xe ôm; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị Q (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1964 và 02 con, con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1993; tiền sự: không; tiền án: ngày 12/4/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 02 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản" tại Bản án số 08/2021/HSST (chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 11/8/2022). Nhân thân: năm 1977, bị Ty Công an Nghĩa Bình bắt tập trung cải tạo 20 tháng về hành vi làm giả giấy tờ có giá; năm 2001, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”; năm 2001, bị Công an thị xã Tam Kỳ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc; năm 2008, bị Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; năm 2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; năm 2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; năm 2017, bị công an huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc. Bị bắt tạm giữ từ ngày 22/4/2023, đến ngày 23/4/2023 được trả tự do. Bị bắt tạm giam ngày 27/4/2023. Có mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972. Vắng mặt. Trú tại: tổ 3, thôn T, xã L, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1993. Vắng mặt. Trú tại: khối phố X, phường T, thành phố K, tỉnh Quảng Nam.

+ Anh Võ Ngọc S, sinh năm 1983. Vắng mặt. Trú tại: thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 17/4/2023, bị cáo Nguyễn Văn T điểu khiển xe môtô biển số 92B1-X đi từ nhà đến huyện Quế Sơn để gặp bạn. Khi đi đến khu vực ngã ba Hương An thuộc thị trấn Hương An, huyện Quế Sơn bị cáo điều khiển xe rẽ trái lên hướng thị trấn Đông Phú; đi được một đoạn bị cáo nhìn thấy bên tay trái theo hướng đi của mình có quán bê thui T, thuộc tổ dân phố H, thị trấn Hương An nên bị cáo quay xe lại vào quán để ăn bê thui. Khi vào quán, bị cáo thấy bên trong quán không có khách, chỉ thấy bà Nguyễn Thị H (là nhân viên của quán) đang nằm ngủ trên chiếc giường xếp, bên cạnh bà H có để một điện thoại di động hiệu Samsung A22, màu tím nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại này. Bị cáo đi xung quanh quán kiểm tra thì không thấy ai, bị cáo đi lại vị trí nơi bà H nằm ngủ, dùng tay lấy điện thoại của bà H bỏ vào túi quần rồi đi ra vị trí để xe, điều khiển xe đi về hướng Tam Kỳ. Khi đi đến khu vực ngã tư Quán Gò thuộc xã B, huyện T, bị cáo đem điện thoại vừa trộm cắp được bán cho anh Võ Ngọc S (chủ tiệm điện thoại S) với số tiền 1.800.000 đồng rồi điều khiển xe đi về nhà.

Ngày 22/4/2023, bà Nguyễn Thị H làm đơn báo cáo đến Công an thị trấn H. Qua làm việc, bị cáo đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 19/KL-HĐĐGTS ngày 26/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Sơn kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A22, màu tím; 01 (một) ốp lưng điện thoại màu hồng và 01 (một) sim điện thoại có giá trị tại thời điểm bị xâm phạm là 2.660.000 đồng.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 quần tây dài màu xanh đen; 01 áo dài tay màu xám có sọc kẻ dọc nhiều màu; 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen, phía trước có chữ Helmetac; 01 đôi dép xỏ ngón màu đen có khắc chữ DUWA màu trắng; 01 căn cước công dân tên Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu đen, bên trong có chứa sim số 0787578X; 01 xe môtô hiệu Lifan, màu nâu trắng biển số 92B1-X; 01 hộp dùng để đựng điện thoại Samsung A22 và số tiền 1.400.000 đồng.

Cáo trạng số 22/CT-VKSQS ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 27/4/2023. Bị cáo được trừ thời gian đã bị bắt tạm giữ là 02 ngày (từ 22/4/2023 đến 23/4/2023).

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số tiền 2.000.000 đồng, bà H không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đề nghị xem xét.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 quần tây dài màu xanh đen; 01 áo dài tay màu xám có sọc kẻ dọc nhiều màu; 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen, phía trước có chữ Helmetac; 01 đôi dép xỏ ngón màu đen có khắc chữ DUWA màu trắng; 01 hộp dùng để đựng điện thoại Samsung A22.

- Trả cho bị cáo: 01 căn cước công dân tên Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu đen, bên trong có chứa sim số 0787578X.

- Trả cho anh Nguyễn Văn N: 01 xe môtô hiệu Lifan, màu nâu trắng biển số 92B1-X.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 1.400.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Bị hại có đơn xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về dân sự.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh N có đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh S vắng mặt không lý do. Xét thấy những người tham gia tố tụng trên đã có lời khai trong hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt họ tại phiên tòa.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 17/4/2023, tại quán bê thui T thuộc tổ dân phố H, thị trấn Hương An, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung Galaxy A22 màu tím, 01 ốp lưng điện thoại màu hồng và 01 sim điện thoại của bà Nguyễn Thị H, tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã trộm cắp là 2.660.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 22/CT-VKSQS ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi để nhận thức được điều đó, nhưng với bản tính tham lam, lười lao động, thích hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để trộm cắp tài sản với mục đích tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra thì mới có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt về các hành vi "Trộm cắp tài sản", “Đánh bạc”. Vào ngày 12/4/2021, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 02 (Hai) năm tù về tội "Trộm cắp tài sản", bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/8/2022, đến thời điểm phạm tội chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa, nhưng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt cho xã hội.

[6]. Về những nội dung khác trong vụ án:

Đối với xe môtô biển số 92B1-X: Qua xác minh xe này do ông Nguyễn Tấn T, trú tại thôn 3, xã T, huyện Tiên Phước đứng tên chủ sở hữu. Cách đây khoảng 05 năm, ông T đã bán xe môtô này cho tiệm cầm đồ B tại thành phố K. Sau đó, anh Nguyễn Văn N đã mua lại xe môtô này. Anh N để xe môtô này ở nhà cho bị cáo dùng làm phương tiện để chạy xe ôm. Việc bị cáo T dùng xe này làm phương tiện đi trộm cắp tài sản anh N không biết nên không đặt vấn đề xử lý là phù hợp.

Đối với anh Võ Ngọc S: Khi mua điện thoại di động của bị cáo, anh S không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận 2.000.000 đồng tiền bồi thường từ gia đình bị cáo và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 quần tây dài màu xanh đen, 01 áo dài tay màu xám có sọc kẻ dọc nhiều màu, 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen, phía trước có chữ Helmetac, 01 đôi dép xỏ ngón màu đen có khắc chữ DUWA màu trắng và 01 hộp dùng để đựng điện thoại Samsung A22 hiện không còn giá trị sử dụng, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 căn cước công dân tên Nguyễn Văn T và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu đen, bên trong có chứa sim số 0787578X là tài sản của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe môtô hiệu Lifan, màu nâu trắng biển số 92B1-X là tài sản thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn N, bị cáo T dùng xe này làm phương tiện đi trộm cắp tài sản anh N không biết nên cần trả lại cho anh N.

Đối với số tiền 1.400.000 đồng đã thu giữ của bị cáo. Đây là số tiền bị cáo bán tài sản trộm cắp mà có, nhưng bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại nên số tiền này cần trả lại cho bị cáo.

[9]. Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (27/4/2023). Bị cáo được trừ 02 (Hai) ngày bị bắt tạm giữ (từ 22/4/2023 đến 23/4/2023).

2. Về xử lý vật chứng: Xử:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 quần tây dài màu xanh đen; 01 áo dài tay màu xám có sọc kẻ dọc nhiều màu; 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen, phía trước có chữ Helmetac; 01 đôi dép xỏ ngón màu đen có khắc chữ DUWA màu trắng và 01 hộp dùng để đựng điện thoại Samsung A22.

- Trả cho bị cáo: 01 căn cước công dân tên Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu đen, bên trong có chứa sim số 0787578X và số tiền 1.400.000 (Một triệu bốn trăm nghìn) đồng.

- Trả cho anh Nguyễn Văn N: 01 xe môtô hiệu Lifan, màu nâu trắng biển số 92B1-X.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 02/8/2023. Riêng số tiền 1.400.000 đồng đang tạm giữ tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn tại Kho bạc Nhà nước huyện Quế Sơn theo Ủy nhiệm chi ngày 02/8/2023).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo Nguyễn Văn T được miễn nộp.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (12-9-2023). Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về