TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 20/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:12/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc T - sinh ngày 07 tháng 01 năm 1990 tại TP. Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Tổ 44, phường T, quận T, TP. Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (Sinh năm 1969) và bà Nguyễn Thị Linh T (Sinh năm 1971);
Tiền án: Ngày 05/02/2021 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù về tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 06/2021/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2022.
Nhân thân: Ngày 20/9/2012 bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong các hình phạt của bản án này.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).
- Bị hại: Anh Vũ Hoàn V – sinh năm 2000; nơi cư trú: 90 B, phường H, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. (Vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Bình P – sinh năm 1988;
nơi cư trú: K99/9 H, phường C, quận T, TP. Đà Nẵng. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ 45 phút ngày 03/9/2022, thông qua ứng dụng hẹn hò Grindr- GayDating&Chat, Nguyễn Ngọc T kết nối và nhắn tin qua lại với anh Vũ Hoàng V. Trong quá trình nhắn tin thì T và V hẹn gặp nhau ở phòng trọ của V tại địa chỉ 90 B, tổ 31, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, khoảng 02 giờ 10 phút cùng ngày, T điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius màu đen BKS 43F1-128.xx của anh Nguyễn Bình P, là chủ cửa hàng tiệc cưới C Wedding nơi T làm việc đến phòng trọ của V. Tại đây, T dắt xe vào để trong phòng trọ rồi T và V nói chuyện tâm sự. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày thì T ra về. Khi chuẩn bị dắt xe ra về thì T nhờ V lấy nước cho uống. V để điện thoại di động hiệu Iphone 12 ProMax màu xanh của V trên chiếc bàn gần cửa ra vào và đi về hướng tủ lạnh lấy nước cho T. Sau khi uống nước thì V quay mặt ra hướng cửa (theo tư thế mặt hướng ra phía cửa, lưng hướng về phía T và chiếc bàn có đặt điện thoại) để mở cửa cho T dắt xe ra về. Lúc này, T phát hiện điện thoại di động hiệu Iphone 12 ProMax của V ở trên bàn gần cửa ra vào, nên T đã lợi dụng sơ hở lúc V quay lưng ra để mở cửa, T liền lấy chiếc điện thoại di động nói trên bỏ vào túi quần phía bên trái. Sau đó, T dắt xe ra khỏi phòng trọ của V và điều khiển xe chạy về cửa hàng tiệc cưới Cúc Na nơi T làm việc tại địa chỉ K99/9 T, phường G, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng 02 giờ 43 phút thì T về đến cửa hàng tiệc cưới Cúc Na. Tại đây, T lấy điện thoại di động vừa trộm được ra tắt nguồn và tháo sim, sau đó, T cất giấu điện thoại tại kho vật dụng của cửa hàng với mục đích chờ cơ hội thích hợp sẽ đem bán để lấy tiền tiêu xài. Sau khi T dời đi khoảng 2-3 phút sau thì anh V phát hiện bị mất điện thoại, anh V đã định vị được điện thoại ở vị trí K99/11 T, phường G, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng nên anh V đến trụ sở Công an phường Hòa Minh trình báo vụ việc. Ngày 04/9/2022, sau khi biết vụ việc đã bị Công an phát hiện nên Nguyễn Ngọc T đến Công an quận Liên Chiểu đầu thú và giao nộp điện thoại di động hiệu Iphone 12 ProMax màu xanh trộm cắp được.
Ngày 30/9/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu ban hành Kết luận định giá số 115/KL-HĐĐGTS xác định: 01 điện thoại di động màu xanh đã qua sử dụng hiệu Apple – Iphone 12 ProMax 128GB, số serial: G6TDL2UK0D5H có giá trị 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
* Tang vật tạm giữ:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 ProMax màu xanh, số imei1: 356733119059364, số imei2: 356733114642925 Tại Bản cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 16 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T như Bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T mức án từ 12 đến 15 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc T đã khai nhận:
Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 03/9/2022, tại phòng trọ số 90 B, tổ 31, phường H, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, Nguyễn Đức T lợi dụng lúc Vũ Hoàng V không để ý đã có hành vi lén lút đã lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 ProMax màu xanh của anh V, trị giá 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập được. Hội đồng xét xử kết luận: Hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, có sự tính toán, thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm. Bị cáo T có nhân thân xấu, ngày 20/9/2012 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong các hình phạt của bản án này. Ngày 05/02/2021 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt 15 tháng tù về tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, P tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2022 chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần thiết xử mức hình phạt tương xứng và cao hơn mức đề nghị của Viện kiểm sát mới đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú về hành vi phạm tội của mình, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Vũ Hoàng V đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự và không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về xử lý vật chứng: Ngày 30/12/2022, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 05/QĐ-CQĐT trả lại 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 ProMax màu xanh cho Vũ Hoàng V là có cơ sở.
[7] Đối với Nguyễn Bình P: Việc Nguyễn Ngọc T sử dụng xe mô tô hiệu Yamaha Sirius BKS 43F1-128.xx thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì anh P không biết, do dó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có cơ sở.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2023/HS-ST
Số hiệu: | 25/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về