Bản án về tội trộm cắp tài sản số 250/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 250/2022/HS-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 08 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:234/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 249/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 08 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Lâm P; Giới tính: Nam.Tên gọi khác: Bo;Sinh ngày 18 tháng 12 năm 1998; Tại: Tỉnh Đắk Lắk.Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;Trình độ học vấn: 9/12;Nghề nghiệp: Không;Nơi cư trú: 04/01 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.Con ông: Nguyễn Văn P, sinh năm: 1972; Con bà: Đỗ Thị Hồng H, sinh năm: 1978. Gia đình bị cáo có hai anh em ruột, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền sự: Không; Tiền án: 02.

Ngày 06/7/2018, bị Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái pháp chất ma tuý, quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, tại bản án số: 172/2018/HSST. Ngày 06/6/2019 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo chưa được xoá án tích.

Ngày 14/01/2020, bị Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, tại bản án số: 15/2020/HSST. Ngày 18/4/2021, chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo chưa được xoá án tích.

Bị cáo Nguyễn Lâm P bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột, từ ngày 29/6/2022 cho đến nay (Bị cáo có mặt tại Pên tòa).

-Bị hại: Anh Đỗ Xuân T- sinh năm: 1986(Vắng mặt).

Địa chỉ: 16 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

1 -Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1.Chị Đỗ Thị Xuân T: sinh năm: 1986(Vắng mặt).

Địa chỉ: 16 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2.Anh Nguyễn Thiện P: sinh năm: 1996(Vắng mặt).

Địa chỉ: 51/15 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

3. Anh Nguyễn Thiện Đ; sinh năm: 1996(Vắng mặt) Địa chỉ: 51/15 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Pên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Lâm P là người đã có tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý và Trộm cắp tài sản, chưa được xoá án tích.

Khoảng 09 giờ ngày 26/6/2022, Nguyễn Lâm P đi bộ đến trước số nhà địa chỉ 16 Trần Quý Cáp, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu xanh, biển số 47L8-6555 của anh Đỗ Xuân T đang dựng phía trước nhà, có cắm chìa khoá trên xe nên P đã đi đến lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 47L8-6555 của anh T rồi nổ máy xe chạy đến khu vực hoa viên trên đường Phan Bội Châu, phường Thành Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột thì gặp nam T niên (chưa rõ nhân thân lai lịch) mua ma túy sử dụng. Tại đây, P gặp Nguyễn Thiện P (là bạn P, sinh năm: 1996, trú tại: 51/15 Nguyễn Công Trứ, phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột). P nói P bán giúp chiếc xe mô tô biển số 47L8-6555 thì P hỏi xe có giấy tờ không, P trả lời là xe của nhà P mang đi bán nhưng bố mẹ đang giữ giấy tờ xe mô tô. Sau đó P điều khiển chiếc xe mô tô biển số 47L8-6555 chở P đi bán nhưng không ai mua. Đến khoảng 12 giờ ngày 28/6/2022, P mượn xe mô tô biển số 47L8-6555 chở Nguyễn Thiện Đ (là em tra P) đi công việc thì bị Cơ quan điều tra phát hiện đưa về cơ quan làm việc xử lý.

Cơ quan điều tra tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu xanh, biển số 47L8-6555 và giấy đăng ký xe mô tô xe máy biển số 47L8-6555, để phục vụ công tác điều tra.

Tại Bản kết luận định giá số 107/KL-HĐĐGTS ngày 03/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu sơn xanh, biển số 47L8-6555, số máy MC1100015904, số khung G2UM6A015903, trị giá 2.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 249/CT-VKS TPBMT ngày 08 tháng 08 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột đã quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Lâm P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại Pên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Lâm P phạm tội “Trộm cắp tài sản” Về hình phạt: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Nguyễn Lâm P từ: 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, tạm giữ ngày 29/06/2022.

*Các biện pháp tư pháp:Căn cứ Điều 46 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 và Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với Nguyễn Thiện P có hành vi cùng Nguyễn Lâm P đi bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu xanh, biển số 47L8-6555 nhưng P không biết chiếc xe mô tô biển số 47L8-6555 là do Nguyễn Lâm P trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý, là phù hợp.

Đối với nam T niên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) là người bán ma tuý cho Nguyễn Lâm P. Hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này. Do vậy, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm r , xử lý sau là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của các bị cáo Nguyễn Lâm P. Ngày 29/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bằng hình thức phạt cảnh cáo, theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, là phù hợp.

-Về xử lý vậy chứng:

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu sơn xanh, biển số 47L8-6555, số máy MC1100015904, số khung G2UM6A015903, là tài sản thuộc sỡ hữu của anh Đỗ Xuân T. Ngày 29/7/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản cho anh Đỗ Xuân T nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại chiếc xe anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác là phù hợp.

Tại Pên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Lâm P không tranh luận gì thêm thừa nhận hành vi phạm tội của mình đã gây ra đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng một mức án nhẹ nhất vì bị cáo đã ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Pên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột; Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại Pên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại Pên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện, phù hợp với toàn bộ vật chứng đã thu được …Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên khoảng 09 giờ ngày 26/6/2022 tại phía trước nhà của anh Đỗ Xuân T, địa chỉ: 16 Trần Qúy Cáp, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, Nguyễn Lâm P đã trộm cắp tài sản của anh Đỗ Xuân T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu sơn xanh, biển số 47L8-6555, trị giá tài sản là 2.500.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Lâm P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

g) Tái phạm nguy hiểm.” Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo với hành vi phạm tội của mình. Phạm tội gây thiệt hại không lớn. Do đó cần xem xét để áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Lâm P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, là một trong những quyền về tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Khi thực hiện hành vi bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; thế nhưng chỉ vì ham lợi bất chính không chịu lao động, không có thu nhập nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của bản thân, mà bị cáo đã không tôn trọng pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác, cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do bị cáo gây ra. Trước lần phạm tội này, Ngày 06/7/2018, bị Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái pháp chất ma tuý. Ngày 14/01/2020, bị Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Mặc dù chấp hành xong hình phạt tù, tuy nhiên bị cáo chưa được xoá án tích và không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội, do vậy Viện Kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ Luật hình sự là đúng người, đúng tội. Do đó cần phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian như Viện kiểm sát đề nghị mới đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[3]. Các biện pháp tư pháp:Căn cứ Điều 46 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 và Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với Nguyễn Thiện P có hành vi cùng Nguyễn Lâm P đi bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu xanh, biển số 47L8-6555 nhưng P không biết chiếc xe mô tô biển số 47L8-6555 là do Nguyễn Lâm P trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý, là phù hợp.

Đối với nam T niên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) là người bán ma tuý cho Nguyễn Lâm P. Hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này. Do vậy, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm r , xử lý sau là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của các bị cáo Nguyễn Lâm P. Ngày 29/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bằng hình thức phạt cảnh cáo, theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, là phù hợp.

-Về xử lý vậy chứng:

Chấp nhận ngày 29/7/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu sơn xanh, biển số 47L8-6555, số máy MC1100015904, số khung G2UM6A015903 cho anh Đỗ Xuân T nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại chiếc xe anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác là phù hợp.

[4]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 22 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Lâm P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Lâm P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Lâm P:02(Hai) năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, tạm giữ ngày 29/06/2022.

2.Về án phí: Bị cáo Nguyễn Lâm P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại Pên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 250/2022/HS-ST

Số hiệu:250/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về