Bản án về tội trộm cắp tài sản số 248/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 248/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường xét xử trực tuyến Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 227/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2023/QĐXXST-HS ngày 28/8/2023 đối với bị cáo:

Họ tên: NQH Giới tính: Nam Tên gọi khác: Không Sinh năm: 1992 tại: Hà Nội HKTT và chỗ ở: Tổ 12, P. G, Q. Long Biên, TP Hà Nội Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Trình độ học vấn: 12/12 Nghề nghiệp: Không Họ tên cha: NQT Sinh năm: 1958 Họ tên mẹ: ĐTO Sinh năm: 1964 Tiền án, tiền sự: Không Bị can đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 12/6/2023, tạm giam từ ngày 21/6/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an quận Long Biên.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Bị hại:

- Chị NTT - sinh năm: 2003

Trú tại: số 21 ngõ 8 phường T, quận Long Biên, Hà Nội

- Chị NTTT – sinh năm: 1988  

Trú tại: số 18/554 N, phường G, Long Biên, Hà Nội

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh NĐTH – sinh năm 1989

Trú tại: tổ 13 phường G, quận Long Biên, Hà Nội

(Chị TT, anh H vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị TT đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 12/6/2023, NQH (sinh năm: 1992; trú tại: Tổ 12 P. G, Q. Long Biên, TP Hà Nội) đến Công an phường G, quận Long Biên đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể: H không có nghề nghiệp, không có thu nhập, cần tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Ngày 01/6/2023, H đi bộ lang thang một mình tại khu vực phường G tìm kiếm xe máy sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến ngõ 548 đường , H phát hiện có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu xanh đen BKS 29K2-070.XX dựng tại vỉa hè gần số nhà 6/XX. H đến gần nhận thấy không có ai trông coi, xe không khóa nên H lén lút dắt chiếc xe trên đến một cửa hàng sửa xe không nhớ rõ địa chỉ để nhờ mở cốp thì phát hiện bên trong có 01 ví da đã qua sử dụng trong ví có đăng ký xe mang tên NTT. Do không tìm được người mua xe nên H mang chiếc xe trên gửi tại bãi gửi xe gần khu vực chung cư B. Ngày 02/6/2023, H lên mạng xã hội F tìm người mua xe cũ và liên hệ được với một người đàn ông không quen biết, hẹn địa điểm mua bán xe tại bãi gửi xe khu vực chung cư B. Sau đó, H đã mang bán chiếc xe Honda Lead màu xanh đen BKS 29K2-070.XX cho người đàn ông này tại khu vực chung cư B, phường B, quận Long Biên với giá 15.000.000 đồng. Hiện Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc xe trên.

Đến ngày 07/6/2023, H tiếp tục đi bộ lang thang một mình tại khu vực ngõ 554 đường N thì phát hiện 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead BKS 29k1- 484XX dựng tại trước cửa nhà số 18/5XX đường N, không có người trông giữ, không có khóa. H lén lút dắt chiếc xe trên đến vườn hoa N nhờ thợ khóa làm một chiếc khóa xe, sau đó điều khiển chiếc xe trên đến gửi tại cửa hàng mua bán xe máy của anh NĐTH là người quen của H, tại tổ 13 phường G và vay số tiền 6.000.000 đồng.

Vật chứng tạm giữ:

- Của NQH: 01 ba lô màu xanh tím than, 01 mũ lưỡi trai màu ghi, 01 áo phông màu tím H sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; 01 điện thoại Iphone XS màu đen; 01 điện thoại Oppo A31 màu xanh trắng; 01 ví da màu xanh tím than đã qua sử dụng.

- Của NĐTH: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead BKS 29K1-484XX.

Ngày 12/6/2023, chị NTT (sinh năm 2003; trú tại: Số 21 ngõ 8, P.T, Q.

Long Biên, TP Hà Nội) đến Công an phường G trình báo về việc bị mất trộm chiếc xe Honda Lead màu xanh đen BKS 29K2-070.XX và 01 ví da ngày 01/6/2023 tại ngõ 548 đường N, Q. Long Biên, TP Hà Nội.

Cùng ngày 12/6/2023, chị NTTT (sinh năm 1988; trú tại: số 18/5XX đường N, Q. Long Biên, TP Hà Nội) đến Công an phường G trình báo về việc bị mất trộm chiếc xe Honda Lead BKS 29k1-48XX ngày 07/6/2023 tại trước cửa nhà số 18/5XX đường N, Q. Long Biên, TP Hà Nội.

Tại kết luận định giá tài sản số 108/KL-HĐĐGTS ngày 13/6/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Long Biên xác định chiếc xe Honda Lead màu xanh đen BKS 29K2-070.XX trị giá là 30.150.000 đồng; chiếc xe Honda Lead BKS 29K1-484XX trị giá là 22.000.000 đồng; trị giá chiếc ví da màu xanh đen là 200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị can chiếm đoạt là 52.350.000 đồng.

Anh NĐTH đã tự nguyện giao nộp chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead BKS 29K1-484XX cho Cơ quan điều tra Công an quận Long Biên. Tại Cơ quan điều tra, anh H trình bày: do H là hàng xóm của anh Hoa nên khi H mang chiếc xe trên đến gửi nhờ, H đồng ý và không hỏi gì về nguồn gôc chiếc xe trên. Ngoài ra, H hỏi vay số tiền 6.000.000 đồng. Anh H đồng ý cho vay, không lập giấy tờ, không có lãi suất. Chiếc xe máy Honda Lead BKS 29K1-48XX không phải là tài sản cầm cố, không liên quan đến việc cho vay tiền. Lời khai của NĐTT phù hợp với lời khai của bị can NQH. Do đó, Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với anh NĐTH.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead BKS 29K1-484XX, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị NTTT. Ngày 20/7/2023, Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị NTTT. Sau khi nhận được tài sản, chị NTTH không có đề nghị gì về dân sự và đề nghị xử lý bị can theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 ví da màu xanh tím than đã qua sử dụng là tài sản của chị NTT. Ngày 20/7/2023, Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị NTT. Sau khi nhận được tài sản, chị NTT đề nghị NQG phải bồi thường số tiền 30.150.000 đồng là giá trị của chiếc xe máy Honda Lead màu xanh đen BKS 29K2-070.XX bị trộm cắp không thu hồi được và đề nghị xử lý bị can theo quy định của pháp luật.

Anh NĐTH đề nghị NQH trả lại số tiền 6.000.000 đồng là tiền H vay của anh H.

Đối với các yêu cầu bồi thường trên, hiện nay NQH chưa có khả năng bồi thường.

Đối với 01 ba lô màu xanh tím than, 01 mũ lưỡi trai màu ghi, 01 áo phông màu tím H sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; 01 điện thoại Iphone XS màu đen, 01 điện thoại Oppo A31 màu xanh trắng bị can sử dụng để tiêu thụ tài sản trộm cắp là các vật chứng của vụ án. Chuyển Tòa án nhân dân quận Long Biên giải quyết theo thẩm quyền.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số: 197/CT-VKS ngày 16/8/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố NQH về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo NQH đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào điểm c khoản 2 Điều 173 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 BLHS 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo H mức án từ 28 đến 32 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho chị NTT số tiền 30.150.000 đ, bồi thường cho anh NĐTH số tiền 6.000.000 đ.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 ba lô màu xanh tím than, 01 mũ lưỡi trai màu ghi, 01 áo phông màu tím không còn giá trị sử dụng đề nghị tịch thu tiêu hủy; trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone XS màu đen do không liên quan đến vụ án; 01 điện thoại Oppo A31 màu xanh trắng H sử dụng để tiêu thụ tài sản trộm cắp đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu, lời khai bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 01/6/2023 tại vỉa hè số nhà 6/XX, ngõ 548 đường N, phường G, quận Long Biên, TP Hà Nội, NQH có hành vi trộm cắp chiếc xe Honda Lead màu xanh đen BKS 29K2-070.XX và 01 ví da của chị NTT, tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 30.350.000 đồng (Ba mươi triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng).

Ngày 07/6/2023 tại khu vực ngõ 5XX đường N, phường G, quận Long Biên, TP Hà Nội, NQH có hành vi trộm cắp chiếc xe Honda Lead màu xanh đen BKS 29K1-X của chị NTTT, giá trị tài sản chiếm đoạt là 22.000.000 đồng (Hai hai triệu đồng chẵn).

Tổng giá trị tài sản trộm cắp NQH phải chịu trách nhiệm là 52.350.000 đồng (Năm mươi hai triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo NQH đã cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng TNHS:

Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Bộ luật hình sự bảo vệ. Xét về tính chất, mức độ và nhân thân bị cáo thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 ba lô màu xanh tím than, 01 mũ lưỡi trai màu ghi, 01 áo phông màu tím không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone XS màu đen do không liên quan đến vụ án, 01 điện thoại Oppo A31 màu xanh trắng H sử dụng để tiêu thụ tài sản trộm cắp cần tịch thu sung quỹ nhà nước là có căn cứ.

[6] Về dân sự:

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead BKS 29K1-484XX, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị NTTT. Ngày 20/7/2023, Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị NTTT. Sau khi nhận được tài sản, chị NTTT không có đề nghị gì về dân sự và đề nghị xử lý bị can theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 ví da màu xanh tím than đã qua sử dụng là tài sản của chị NTT. Ngày 20/7/2023, Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị NTT. Sau khi nhận được tài sản, chị NTT đề nghị NQH phải bồi thường số tiền 30.150.000 đồng là giá trị của chiếc xe máy Honda Lead màu xanh đen BKS 29K2-070.34 bị trộm cắp không thu hồi được và đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Việc H vay 6 triệu đồng của Anh NĐTT không có giấy tờ, không liên quan đến vụ án này. Đây là quan hệ dân sự. Anh H có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu NQH trả lại anh số tiền 6.000.000 đồng là tiền Hưng vay của anh Hoa (nếu có yêu cầu).

[7] - Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí HSST và án phí DSST theo quy định của pháp luật.

[8] - Về quyền kháng cáo:

Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 bộ luật Tố tụng Hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo NQH phạm tội: Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt: Bị cáo 28 (hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/6/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone XS Max màu đen.

- Cho tịch thu, tiêu hủy 01 ba lô màu xanh tím than, 01 mũ lưỡi trai màu ghi, 01 áo phông màu tím.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Oppo A31 màu xanh đen (Hiện có tại chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 16/8/2023) Buộc bị cáo bồi thường cho chị NTT số tiền 30.150.000 đ (ba mươi triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và 1.507.500 đ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao, nhận bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 248/2023/HS-ST

Số hiệu:248/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về