Bản án về tội trộm cắp tài sản số 248/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 248/2023/HS-PT NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 274/2023/TLPT-HS ngày 31/10/2023, đối với bị cáo Phạm Văn T và Nguyễn Thị H về tội “Trộm cắp tài sản”, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 26/9/2023, của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn T, sinh ngày 01/01/1977, tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn V (Đã chết) và bà Nguyễn Thị T1; có vợ Nguyễn Thị H và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự:

Không.

Nhân thân: Tại Bản án số 06/2013/HSST ngày 21/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 15.000.000 đồng về tội Đánh bạc. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 17/5/2013 và nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 07/12/2013.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2022 đến nay, hiện đang tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Thị H, sinh ngày 02/3/1981, tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T2 và bà Bùi Thị T3 (Đã chết); có chồng Phạm Văn T và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2022, đến ngày 28/3/2023 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh. Hiện đang tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Hoàng Thị N, sinh năm 1971 và ông Trần Đ, sinh năm 1967; trú tại: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vợ chồng Phạm Văn T và Nguyễn Thị H do tham lam, lười lao động, muốn có tiền tiêu xài cá nhân, nên T và H nảy sinh ý định đi tìm những gia đình có sơ hở trong quản lý tài sản để trộm cắp. Trong thời gian từ ngày 02/11/2022 đến đầu tháng 12/2022, T và H đã bàn bạc và cùng thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn huyện E; Ngoài ra, T còn một mình thực hiện thêm 04 vụ trộm cắp tài sản khác tại địa bàn huyện E và huyện K, tỉnh Đắk Lắk, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Do thường xuyên mua bán trái cây với chị Ngô Thị Q, ở thôn B, xã E, E, nên H biết được nhà của chị Q. Tháng 11/2022, H bàn bạc với T đi đến nhà chị Q để trộm cắp tài sản, Thông đồng ý. Khoảng 08 giờ ngày 02/11/2022, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47U1-X (do H đứng tên chủ sở hữu) chở H ngồi phía sau đi đến nhà chị Q. Đến nơi, sau khi quan sát thấy không có người trông coi, T dừng xe ở ngoài đường cách nhà chị Q khoảng 60m để H đứng cảnh giới, còn T một mình đột nhập vào nhà chị Q. Khi đi vào trong khu vực rẫy cà phê gần nhà chị Q, T phát hiện thấy 01 xà beng dài 1,5 mét để ở sau vườn liền lấy dùng để cạy cửa sổ bên hông nhà chị Q rồi chui vào bên trong phòng ngủ. Sau khi lục lọi, tìm kiếm tài sản, T phát hiện 01 két sắt đang để ở gần đó nên lật ngửa két sắt ra, sử dụng xà beng để cạy phá két sắt, lấy trộm được các tài sản gồm: 01 kiềng (vòng) cổ bằng vàng loại 14,71K, có trọng lượng 7,2334 chỉ, gắn 01 mặt kiềng bằng vàng hình bông hoa, loại 14,80K, có trọng lượng 1,190 chỉ; 01 vòng (còng) đeo tay bằng vàng 9999 có trọng lượng 03 chỉ; 01 nhẫn vàng 9999 có trọng lượng 02 chỉ; 02 nhẫn vàng 18K, trọng lượng mỗi nhẫn là 01 chỉ và số tiền 2.000.000 đồng. Sau khi trộm cắp được các tài sản trên, T và H mang về cất giấu ở nhà.

Khoảng 01 tuần sau, H mang tài sản trộm cắp được đến tiệm V1 ở chợ H1, thị trấn E, huyện E bán, gồm: 01 vòng đeo tay bán được khoảng 13.000.000 đồng; 02 nhẫn vàng được 800.000 đồng; 01 chiếc nhẫn còn lại thì tiệm vàng không mua vì cho rằng đó là vàng giả nên H đã vứt bỏ khi trên đường về nhà. Toàn bộ số tiền bán vàng và tiền mặt đã trộm cắp được thì T và H đã cùng nhau tiêu xài cá nhân hết. Còn lại 01 chiếc kiềng (vòng) cổ kèm theo mặt kiềng bằng vàng thì H cất giữ ở nhà và đã bị Cơ quan Công an thu giữ. Đối với chiếc xà beng mà T sử dụng để cạy phá két sắt, thì sau khi trộm cắp tài sản xong trên đường về T đã vứt bỏ, không nhớ rõ vị trí nên không thu giữ được.

Tại Kết luận định giá tài sản số 643, ngày 16/03/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 01 vòng (kiềng) vàng loại 14,71K trọng lượng 7,2334 chỉ, có gắn mặt dây chuyền vàng loại 14,80K trọng lượng 1,190 chỉ; 01 vòng tay vàng loại 9999 trọng lượng 03 chỉ; 01 nhẫn vàng loại 9999 trọng lượng 02 chỉ; 02 nhẫn vàng loại 18K trọng lượng mỗi nhẫn 01 chỉ; 01 nhẫn vàng loại 9K trọng lượng 01 chỉ (từ chối định giá vì không thu thập được giá loại trang sức vàng 9K trên thị trường). Có tổng giá trị là 60.050.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Phạm Văn T và Nguyễn Thị H đã chiếm đoạt là 62.050.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 34a/KL-HĐĐGTS, ngày 14/07/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E, kết luận: 01 két sắt nhãn hiệu BauchenTC, kích thước (0,8 x 0,6 x 0,47)m, có giá trị 1.250.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ ngày 02/11/2022, T điều khiển xe mô tô biển số 47U1 - X chở H đi đến buôn L, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk để tìm kiếm tài sản trộm cắp. Tại đây, T phát hiện nhà của gia đình ông Adrơng Y B không có người trông coi, T để xe mô tô và H đứng ở ngoài đường cảnh giới, còn T thì tìm cách đột nhập vào trong nhà. Vào phía sau nhà, T thấy cửa gỗ được chốt bên trong bằng 01 chiếc đũa (cửa hở có thể luồn tay vào trong), T thò tay vào khe hở để rút chiếc đũa ra rồi mở cửa đi vào trong lấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S9. T tiếp tục tìm kiếm trong phòng ngủ thấy có 01 két sắt đang để ở đây liền đi tìm kiếm dụng cụ phá két, T thấy 01 xà beng dài 1,47m đường kính 0,03m, một đầu dẹp rộng 0,05m, một đầu bằng kích thước 0,03m và 01 con dao dài 48cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 0,3m, cán dao bằng tre dài 0,18m để ở cạnh nhà, Thông sử dụng xà beng và con dao trên để cạy phá két sắt, lấy trộm được 100.000.000 đồng tiền mặt; 04 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 9999 (trong đó có 03 nhẫn mỗi nhẫn có trọng lượng 01 chỉ và 01 nhẫn loại 05 phân). Sau khi trộm cắp được tài sản, T sử dụng điện thoại di động gọi cho H đến đón. Sau đó, T và H cùng nhau mang các tài sản trộm cắp được về nhà cất giấu, hai ngày sau, T mang 04 nhẫn vàng trộm cắp được đến tiệm V1 ở chợ H1, thị trấn E, huyện E bán được 20.000.000 đồng cùng với số tiền mặt 100.000.000 đồng, T và H đã sử dụng để tiêu xài hết. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S9, T giữ lại và gắn sim số 0981.587.X của T vào để sử dụng, hiện đã bị Cơ quan Công an thu giữ. Còn điện thoại di động đen trắng, không rõ nhãn hiệu của T dùng để gọi điện cho H thì đã bị hỏng nên T đã vứt bỏ, không nhớ rõ vị trí.

Tại Kết luận định giá tài sản số 643, ngày 16/03/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 01 nhẫn vàng loại 9999 trọng lượng 0,5 chỉ có giá 2.625.000 đồng; 03 nhẫn vàng loại 9999 trọng lượng mỗi nhẫn 01 chỉ có giá 15.750.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S9, màu tím có giá 2.500.000 đồng. Tổng giá trị vật định giá là 20.8750.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Phạm Văn T và Nguyễn Thị H đã chiếm đoạt của gia đình ông A Y Blik là 120.875.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 34a/KL-HĐĐGTS ngày 14/07/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 két sắt nhãn hiệu BauchenT, kích thước (0,54 x 0,62 x 0,44)m có giá trị 1.400.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 07 giờ ngày 28/11/2022, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu LONCIN, biển số 47K1-3013 (xe của T mua lại cách đây khoảng 03 đến 04 năm tại thị trấn E, huyện E, không nhớ địa chỉ cụ thể) đi đến bãi đá tại khu điện gió E thuộc thôn C, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk rồi dựng xe ở đây. Sau đó, T xin đi nhờ xe của 01 người đồng bào dân tộc thiểu số đi về hướng đường H (Quốc lộ A), đi được khoảng 4km thì T xuống xe đi bộ vào khu vực các lô rẫy cà phê để tìm kiếm tài sản. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, T phát hiện nhà kho trong rẫy cà phê của bà Lâm Thị L, trú tại: Thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk không có người trông coi, quản lý nên dùng tay giật bung cổng đi vào trong sân tìm kiếm và phát hiện có chìa khóa nhà giấu ở trụ bê tông trước sân nên T đã lấy chìa khóa mở cửa nhà kho đi vào bên trong và lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu SINOSTAR, biển kiểm soát 47N1-X đang để ở đây (có chìa khóa cắm ở trên xe). Sau khi trộm cắp chiếc xe mô tô trên, T điều khiển xe đi về nơi cất giấu xe mô tô của T ban đầu rồi T giấu chiếc xe này vào bụi trong rẫy cà phê gần đó. Sau đó, T điều khiển xe mô tô của mình về nhà. 02 ngày sau, T quay lại để lấy chiếc xe mô tô đã trộm cắp được đem về nhà cất giấu và gắn biển số 47B1-X để sử dụng đi trộm cắp tài sản các vụ tiếp theo, hiện chiếc xe trên đã bị Cơ quan Công an thu giữ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 643, ngày 16/03/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu SINOSTAR, biển kiểm soát 47N1-X, có giá trị là 2.000.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 07 giờ ngày 05/12/2022, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SINOSTAR, gắn biển số: 47B1-X (biển số xe này trước đây T nhặt được ở trên đường) đi đến địa bàn xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi đi đến khu vực thôn T, xã E, huyện K, Thôn G phát hiện nhà của bà Hoàng Thị N không khoá cổng, không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản. T đem cất giấu xe mô tô vào trong lô cà phê cách cổng nhà bà N khoảng 50m rồi đi đến cổng luồn tay qua khe cửa kéo chốt mở cổng đi vào bên trong sân, T tiếp tục đi về phía chuồng nuôi lươn và nhìn xuống phía dưới rẫy cà phê sau nhà thấy có người đang hái cà phê cách xa ngôi nhà, T đi đến cửa nhà thì thấy cửa đang đóng nhưng không khoá nên T mở cửa đi vào phòng khách rồi xuống phòng bếp nhưng không phát hiện có tài sản gì. Sau đó, T tiếp tục quay lại đi vào phòng ngủ trên cùng nhìn vào để tìm kiếm tài sản thì phát hiện và lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A95, màu xanh dương. T tiếp tục đi vào phòng ngủ thứ 3 thì phát hiện và lấy trộm thêm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Note 10. T bật điện phòng ngủ này lên để thuận lợi tìm kiếm thì thấy trong góc phải phòng có 01 cái két sắt không khoá nên đã dùng tay mở cửa két và lấy trộm các tài sản gồm: 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 9999, loại nhẫn trơn (mỗi nhẫn có trọng lượng 01 chỉ); 01 tượng phật di lặc bằng vàng 9999 có trọng lượng 01 chỉ; số tiền 17.000.000 đồng. Sau đó, T đi ra khỏi nhà để tẩu thoát, trong quá trình tẩu thoát, T phát hiện có 01 camera an ninh gắn ở trong phòng khách và 02 camera an ninh gắn ở xung quanh nhà (đều có nhãn hiệu Ezviz), lo sợ bị phát hiện nên T đã tháo 03 camera an ninh trên và mang đi. Sau đó, T đi ra vị trí giấu xe mô tô ban đầu và điều khiển xe đi về, trên đường đi T đã ném tượng phật di lặc bằng vàng 9999 vào rẫy cà phê (không nhớ rõ vị trí). Khi đi đến gần ngã 3 đường liên huyện thì T tiếp tục ném 03 camera trên vào rẫy cà phê bên đường (không nhớ rõ vị trí) rồi T đi ra hướng xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Đi được thêm một đoạn thì T tiếp tục ném chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Note 10 vào rẫy cà phê bên đường (không nhớ rõ vị trí) rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà của mình. Khi về đến nhà, T kiểm tra lại thì phát hiện chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A95, màu xanh dương đã bị rơi mất, tại đâu không rõ, còn 02 chiếc nhẫn vàng 9999 thì ngày hôm sau T mang đến 01 tiệm vàng (không nhớ tên, địa chỉ) tại chợ thị xã B được số tiền 10.000.000 đồng, số tiền bán vàng cùng với số tiền 17.000.000 đồng tiền mà T trộm cắp được T đã một mình tiêu xài cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 643, ngày 16/03/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 9999, loại nhẫn trơn, mỗi nhẫn có trọng lượng 01 chỉ có giá trị là 10.790.000 đồng; 01 tượng phật di lặc bằng vàng 9999 có trọng lượng 01 chỉ có giá trị là 5.395.000 đồng. Tổng giá trị là 16.185.000 đồng.

Từ chối định giá đối với tài sản gồm: 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung Note 10; 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung Z Fold 4; 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone 13 Pro Max, vì không đủ thông tin, không có thông số kỹ thuật của tài sản, không đánh giá được chất lượng của tài sản nên không có căn cứ để xác định giá trị thiệt hại.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 34a/KL-HĐĐGTS ngày 14/07/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: giá trị của 03 camera nhãn hiệu Ezviz là 1.870.000 đồng.

Vụ thứ năm: Khoảng 07 giờ, đầu tháng 12/2022, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SINOSTAR, gắn biển số 47B1-X đi đến khu vực thôn C, xã E, huyện E tìm kiếm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Đến nơi, T phát hiện nhà của anh Lê Thanh T4 không có người trông coi, T nhặt 01 miếng kim loại mỏng, dài khoảng 30cm, dày 0,5cm ở gần đó để cạy cửa sắt phía sau, sau khi cạy được cửa T đột nhập vào trong nhà tìm kiếm tài sản. T đi vào phòng ngủ lục tìm trong tủ quần áo thì phát hiện trong túi áo khoác có số tiền 1.000.000 đồng, T tiếp tục lục tìm các phòng khác trong nhà thì phát hiện 01 giỏ xách bằng vải màu xanh của phụ nữ bên trong có số tiền 1.500.000 đồng. T đã lấy toàn bộ số tiền nêu trên rồi bỏ đi, trên đường đi T đã ném bỏ miếng kim loại dùng để cạy cửa đi và không nhớ rõ vị trí ném. Toàn bộ số tiền T trộm cắp được một mình T đã tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ sáu: Vào khoảng 10 giờ, đầu tháng 12/2022, T đi đến Buôn K, xã E, huyện E thì phát hiện nhà của anh Y Xuân M không có người ở nhà, T đã leo hàng rào thép lưới B40 mở cửa sau (không khoá) đột nhập vào trong nhà để trộm cắp tài sản. T lục tìm và lấy trộm 01 bao hồ tiêu khô có trọng lượng 60kg. Sau đó, T đem bán số hồ tiêu trên tại một đại lý thu mua nông sản (không nhớ tên, địa chỉ) tại huyện E, tỉnh Đắk Lắk được số tiền hơn 3.000.000 đồng, số tiền này T đã một mình tiêu xài cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 643, ngày 16/03/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 01 bao hồ tiêu khô có trọng lượng 60kg có giá trị là 3.480.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Văn T và Nguyễn Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 07 (Bảy) năm 06 (S) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 22/12/2022.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2022 đến ngày 28/3/2023.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 06/10/2023, bị cáo Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 09/10/2023, bị cáo Phạm Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09/10/2023, bị hại bà Hoàng Thị N có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại về tài sản gia đình bà bị mất trộm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị H tự nguyện rút đơn kháng cáo, bị cáo Phạm Văn T giữ nguyên kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm. Bị hại bà Hoàng Thị N giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc bị cáo phải bồi thường thêm các tài sản gia đình bà bị mất gồm: 02 dây chuyền vàng loại 9999 trọng lượng mỗi dây 02 chỉ; 01 dây chuyền vàng loại 9999 trọng lượng 05 chỉ; 02 nhẫn vàng loại 9999 trọng lượng mỗi nhẫn 05 chỉ; 09 nhẫn vàng 9999 trọng lượng mỗi nhẫn 01 chỉ; 01 tượng phật bằng vàng loại 9999 trọng lượng 01 chỉ; 04 nhẫn vàng trắng loại 18K trọng lượng mỗi nhẫn 04 chỉ; 01 nhẫn vàng loại 18K trọng lượng 01 chỉ; 01 nhẫn vàng loại 18K trọng lượng 0,5 chỉ; 01 lắc tay vàng loại 9999 trọng lượng 02 chỉ; 01 lắc tay vàng loại 18K trọng lượng 02 chỉ; 01 đôi bông tai bằng vàng trắng loại 18K trọng lượng 01 chỉ.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra đối với hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn T và cho rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 07 năm 06 tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt. Đối với bị cáo Nguyễn Thị H, do rút kháng cáo tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo.

Đối với kháng cáo của bị hại bà Hoàng Thị N cho rằng ngoài những tài sản mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị cáo bồi thường cho bà, thì còn có các tài sản khác gồm nhẫn vàng, dây chuyền…tuy nhiên quá trình điều tra bị cáo không thừa nhận và bà N cũng không cung cấp được tài liệu nào thể hiện việc bị cáo trộm cắp những tài sản này. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị hại.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo, bị hại tranh luận đối đáp với Đại diện viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của các bị cáo Phạm Văn T tại phiên toà phúc thẩm, là phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm; phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Trong thời gian từ ngày 02/11 đến đầu tháng 12 năm 2022, tại địa bàn xã E, thị trấn E, huyện E và xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, Phạm Văn T liên tiếp thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản của nhiều người khác nhau, trong đó có 02 vụ Nguyễn Thị H cùng tham gia. Tổng giá trị tài sản Phạm Văn T đã chiếm đoạt là 225.910.000 đồng. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn T, Hội đồng xét xử nhận thấy: Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cũng như nhân thân của bị cáo và tuyên phạt phạt 07 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, trong khoảng thời gian ngắn nhưng bị cáo đã thực hiện liên tiếp nhiều vụ trộm cắp tài sản có giá trị lớn, hành vi của các bị cáo không chỉ xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của các bị hại, mà còn làm mất tật tự trị an tại địa phương và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, mà cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt là phù hợp.

[3] Đối với kháng cáo của bị hại bà Hoàng Thị N cho rằng, ngoài những tài sản Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị cáo bồi thường cho bà thì bà còn bị mất nhiều tài sản khác gồm: 02 dây chuyền vàng loại 9999 trọng lượng mỗi dây 02 chỉ;

01 dây chuyền vàng loại 9999 trọng lượng 05 chỉ; 02 nhẫn vàng loại 9999 trọng lượng mỗi nhẫn 05 chỉ; 09 nhẫn vàng 9999 trọng lượng mỗi nhẫn 01 chỉ; 01 tượng phật bằng vàng loại 9999 trọng lượng 01 chỉ; 04 nhẫn vàng trắng loại 18K trọng lượng mỗi nhẫn 04 chỉ; 01 nhẫn vàng loại 18K trọng lượng 01 chỉ; 01 nhẫn vàng loại 18K trọng lượng 0,5 chỉ; 01 lắc tay vàng loại 9999 trọng lượng 02 chỉ; 01 lắc tay vàng loại 18K trọng lượng 02 chỉ; 01 đôi bông tai bằng vàng trắng loại 18K trọng lượng 01 chỉ. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra bị cáo Phạm Văn T không thừa nhận đã trộm cắp những tài sản này và Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ điều tra nhưng không chứng minh được. Tại phiên tòa hôm nay bà N cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh cho việc bị cáo đã chiếm đoạt những tài sản này. Vì vậy không có cơ sở để buộc bị cáo T phải chịu tránh nhiệm, đối với những tài sản này.

[4] Xét việc bị cáo Nguyễn Thị H rút toàn bộ kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm là hoàn toàn tự nguyện, nên căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo.

[5] Đối với nội dung về phần dân sự Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc các bị cáo phải bồi thường cho bị hại bà Ngô Thị Q số tiền 63.000.000đ và ông A Y Blik số tiền 82.275.000đ là theo kết luận định giá. Tuy nhiên, không trừ đi giá trị các tài sản mà cơ quan điều tra thu giữ được đã trả lại cho bị hại gồm: Trả cho bà Q lắc vàng có giá trị 15.750.000 đồng; Trả cho ông Y B 01 điện thoại Galaxy có giá trị 2.500.000 đồng là không đúng. Ngoài ra cấp sơ thẩm cũng không tuyên cụ thể phần trách nhiệm liên đới của các bị cáo là thiếu sót. Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù nội dung này không có kháng cáo, kháng nghị nhưng cấp phúc thẩm cũng cần sửa lại phần bồi thường thiệt hại và trách nhiệm liên đới cho đúng với tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt.

[4] Về án phí: Do sửa phần giá trị tài sản mà các bị cáo phải bồi thường, nên cần sửa lại phần án phí dân sự sơ thẩm cho phù hợp. Bị cáo Phạm Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356; Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn T và bị hại bà Hoàng Thị N.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thị H.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 07 (Bảy) năm 06 (S) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 22/12/2022.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

[3.1] Buộc bị cáo Phạm Văn T và Nguyễn Thị H có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Ngô Thị Q tổng số tiền là 47.250.000 đồng; cụ thể bị cáo T phải bồi thường 27.250.000 đồng, bị cáo H phải bồi thường 20.000.000 đồng. Liên đới bồi thường cho ông A Y Blik tổng số tiền 79.775.000 đồng; cụ thể bị cáo T phải bồi thường 42.775.000 đồng, bị cáo H phải bồi thường 37.000.000 đồng.

[3.2] Buộc bị cáo Phạm Văn T phải bồi thường cho bà Hoàng Thị N và ông Trần Đ số tiền 15.055.000 đồng.

[4] Về án phí:

[4.1] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4.2] Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 4.254.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 2.850.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[4.3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000 đồng phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 248/2023/HS-PT

Số hiệu:248/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về